tag:blogger.com,1999:blog-348942872024-02-09T03:06:58.852+11:00Ho Chi Minh - Nhan Dinh Tong Hop - Minh VoUnknownnoreply@blogger.comBlogger15125tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159069503175940762006-09-24T13:43:00.000+10:002006-11-02T05:23:54.876+11:00* Chương 43* Bối cảnh chiến tranh ý thức hệ của tình hình Việt NamQua ý kiến và nhận định của gần 70 tác giả, Hồ Chí Minh luôn luôn hiện ra dưới hai khuôn vóc hoàn toàn trái ngược và trở thành trung tâm của hàng loạt nghi vấn. <br /><br />Hồ Chí Minh là người yêu nước đã mang hạnh phúc về cho nhân dân hay chỉ là kẻ đưa chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam dựng nên một chế độ chuyên chính biến toàn dân thành nô lệ sống dưới trăm ngàn mối áp bức đe dọa?<br /><br />Hồ Chí Minh là đại anh hùng cứu quốc có công giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân bảo vệ nền độc lập quốc gia hay chỉ là kẻ gây cảnh núi xương sông máu kéo dài suốt một nửa thế kỷ, tàn sát hàng chục triệu nạn nhân? <br /><br />Hồ Chí Minh là vị cha già dân tộc đã chấp nhận hy sinh trọn đời để phụng sự đồng bào hay chỉ là kẻ mê hoặc cưỡng bức đồng bào đóng vai những công cụ phụng sự cho tham vọng bá chủ thế giới của Liên Xô? <br /><br />Hồ Chí Minh là con người giản dị, ngay thẳng có cuộc sống thanh khiết cao cả thánh thiện như một thiên thần hay chỉ là kẻ xảo trá, lường gạt với trăm ngàn thủ đoạn che giấu chân tướng đầy những vết nhơ?…<br /><br />Hồ Chí Minh là con người ôn nhu, hiếu hòa bị đàn em hiếu chiến khống chế trong chủ trương đánh chiếm miền Nam bằng võ lực hay là một lãnh tụ gian hùng bề ngoài đóng vai ông Thiện để điều khiển thủ hạ làm ác? ….<br /><br />Đó là một vài nghi vấn tiêu biểu.<br /><br />Để giải đáp thỏa đáng những nghi vấn này, không thể dựa vào số lượng lời khen tiếng chê, cũng không thể giới hạn theo một số sự kiện nào đó thuộc phạm vi đời sống cá nhân. <br /><br />Hồ Chí Minh có thể rất đắc nhân tâm do luôn biểu hiện phong thái chân thành đơn giản, tự nhiên thân mật. <br /><br />Hồ Chí Minh có thể từng ôm ấp những ước mong phù hợp với ước mong của hết thẩy mọi người. <br /><br />Hồ Chí Minh có thể chỉ có một thói xấu duy nhất như chính ông đã từng tự đánh giá là “nghiền thuốc lá”. <br /><br />Hồ Chí Minh có thể bị thù ghét nhiều hơn yêu thương hoặc ngược lại, được toàn dân kính mến vv… <br /><br />Bản thân những sự kiện trên rất quan trọng để hiểu về bất kỳ con người nào nhưng không đóng góp được bao nhiêu trong việc đánh giá con người Hồ Chí Minh.<br /><br />Dù muốn dù không, Hồ Chí Minh đã là một nhân vật lịch sử và là nhân vật lịch sử ghi lại dấu ấn đậm đà trong một giai đoạn đầy sóng gió của Việt Nam. Cho nên, những nghi vấn về con người Hồ Chí Minh chỉ có thể giải đáp bằng chính thực tế lịch sử Việt Nam gắn bó với mọi hành vi của ông.<br /><br />Thực tế lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 lại không thể tách rời khỏi ảnh hưởng của nhiều biến cố thế giới, trong đó có cuộc Cách Mạng Tân Hợi xóa bỏ chế độ phong kiến tại Trung Hoa và đặc biệt là cuộc Cách Mạng Vô Sản Nga.<br /><br />Cả hai cuộc cách mạng trên đều trực tiếp ảnh hưởng vào tình hình Việt Nam với những dấu ấn rõ rệt. <br /><br />Cuộc Cách Mạng Tân Hợi thúc đẩy những nỗ lực đấu tranh nhắm mục tiêu tiến tới Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do, Dân Sinh Hạnh Phúc trong đó, kẻ địch cần lật đổ được xác định cụ thể là thế lực ngoại bang thống trị. <br /><br />Cuộc Cách Mạng Vô Sản chọn chủ nghĩa Marx làm lý tưởng thúc đẩy một cuộc đấu tranh không hướng về quyền lợi dân tộc mà nhắm phụng sự quyền lợi giai cấp vô sản trên toàn thế giới nên bao trùm nhiều mặt phức tạp hơn, trong đó quan niệm bạn và thù thay đổi tùy theo thực tế của từng giai đoạn đã dẫn tới không ít ngộ nhận về mọi biến cố.<br /><br />Để tránh tình trạng này, cần nhìn lại chủ thuyết Cộng Sản cùng các phương thức đấu tranh mà Cộng Sản áp dụng, nhất là vì trên thực tế, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã giành được vai trò chủ động trên chính trường Việt Nam từ tháng 8-1945. <br /><br />Ngày nay, chủ thuyết Cộng Sản đã lỗi thời, nhưng không thể phủ nhận tác động của nó trong tình hình Việt Nam kể từ thời điểm trên. Cho nên, dù muốn dù không vẫn cần ghi lại một số nét chủ yếu trong mấy tiêu điểm đã trở thành nền tảng của mọi biến cố từng xẩy ra tại Việt Nam (1) :<br /><br />– Chủ thuyết Cộng Sản và mục tiêu cuối cùng.<br /><br />– Chiến lược và sách lược đấu tranh.<br /><br />– Vai trò lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế. <br /><br />– Võ khí chính trong tiến hành đấu tranh. <br /><br /> <br /><br /><strong>I. Chủ thuyết và mục tiêu cuối cùng.</strong><br /><br />Chủ thuyết Cộng Sản minh thị mục tiêu cuối cùng là phụng sự giai cấp vô sản nên chủ trương phải phát động đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp phát xuất từ định luật mâu thuẫn trong duy vật biện chứng và từ quan niệm duy vật lịch sử cho rằng đã đến lúc giai cấp bị bóc lột là vô sản vùng lên đấu tranh lật đổ giai cấp bóc lột là tư bản để thiết lập chuyên chính vô sản.<br /><br />* Duy vật biện chứng gồm 4 định luật chính: vạn vật tương quan, vạn vật biến chuyển, lượng biến chất biến và mâu thuẫn nội tại. <br /><br />– Vạn vật tương quan: Theo duy vật biện chứng, thiên nhiên là một toàn bộ trong đó các sự vật và hiện tượng liên hệ hữu cơ với nhau, lệ thuộc vào nhau, quyết định lẫn nhau. Không có hiện tượng nào trong thiên nhiên có thể hiểu được, nếu tách rời khỏi những hiện tượng khác ở xung quanh. <br /><br /> – Vạn vật biến chuyển: Thiên nhiên luôn luôn chuyển biến, luôn luôn đổi mới và phát triển theo hướng một cái gì đó đang hình thành, lớn dần lên trong khi một cái gì đó đang tan rã, tự hủy. Engels viết trong Biện Chứng của thiên nhiên: “Tất cả thiên nhiên, từ cái nhỏ nhất tới cái lớn nhất, từ hạt cát tới mặt trời, từ một sinh vật nguyên sinh (gồm chỉ một đơn bào sống) tới con người, luôn luôn ở trong trạng thái đang phát sinh và đang tiêu diệt, trong một dòng chảy đổi thay liên tục, trong một trạng thái chuyển động và đổi thay không ngừng.” <br /><br />– Lượng biến chất biến: Engels dùng khoa học tự nhiên với những ví dụ đơn sơ như nước đun sôi biến thành hơi nước và sự tiến hóa nhảy vọt từ loại này sang loại khác, như từ vượn lên người (thuyết tiến hóa của Darwin) vv… để chứng minh nếu lượng (quantity) tăng, tăng mãi sẽ đến lúc biến thành chất (quality). Sự biến đổi này là một đột biến, không phải ngẫu nhiên mà theo quy luật thiên nhiên, do tích lũy kết quả nhiều đổi thay từ từ không cảm thấy được chất chứa lại mà thành. <br /><br />– Mâu thuẫn nội tại: là định luật quan trọng nhất. Lênin nói: “Biện chứng, có nghĩa là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong chính bản chất tinh túy của sự vật.” Người ta thường nói nhìn sự vật bằng con mắt biện chứng tức là nhìn cái gì cũng thấy hai khía cạnh tương phản của nó, mặt tích cực và mặt tiêu cực. <br /><br />Stalin viết: “Biện chứng pháp cho rằng tiến trình phát triển từ cái thấp hơn tới cái cao hơn xảy ra không phải như một diễn biến hài hòa của các hiện tượng mà như sự bộc lộ của những mâu thuẫn nằm sẵn trong các sự vật và hiện tượng, như là “sự đấu tranh” giữa những xu hướng đối nghịch đang hoạt động trên nền tảng của những mâu thuẫn đó.” <br /><br />Chủ nghĩa Marx cho rằng trong sự vật và hiện tượng luôn luôn sẵn có mâu thuẫn như thế nên đấu tranh là luật tự nhiên không thể tránh và từ đó phát xuất cuộc đấu tranh giai cấp. <br /><br />* Duy vật lịch sử chia lịch sử nhân loại làm 5 thời kỳ: cộng sản nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản và cuối cùng là cộng sản (chuyên chính vô sản). <br /><br />Chế độ cộng sản nguyên thủy phát triển đã mang sẵn trong mình cái mầm mâu thuẫn và một chế độ khác tốt đẹp hơn từ cái mầm đó mà phát sinh là chế độ nô lệ. <br /><br />Stalin viết: “Ngày nay trong những điều kiện xã hội hiện tại, nhìn lại ta thấy chế độ nô lệ là phi lý, nhưng trong hoàn cảnh lịch sử lúc ấy, nó là hiện tượng tự nhiên của thiên nhiên có thể hiểu được, vì nó tượng trưng cho một bước tiến hơn so với chế độ cộng sản nguyên thủy.”<br /><br /> Stalin tiếp tục nói về các chế độ kế tiếp cũng tương tự như vậy với chủ ý diễn tả định luật mâu thuẫn và định luật biến chuyển luôn theo đà tiến về phía trước của phép biện chứng duy vật. Áp dụng các định luật này vào việc tìm hiểu mọi biến chuyển của xã hội loài người sẽ nhận thức chính xác hơn về các hiện tượng lịch sử. Điều quan trọng là trong mỗi biến chuyển bao giờ cũng có tình trạng nhảy vọt từ lượng lên chất. Do đó cần phải làm cách mạng, chứ không chấp nhận cải lương (cải cách từ từ). Stalin viết: “Do đó, sự quá độ (sự chuyển tiếp) từ tư bản chủ nghĩa đến xã hội chủ nghĩa và giải phóng giai cấp công nhân khỏi ách tư bản chủ nghĩa không thể thực hiện bằng những thay đổi từ từ chầm chậm, bằng những cải cách, mà chỉ có thể thực hiện bằng một thay đổi về chất của chế độ tư bản, nghĩa là bằng cách mạng. Vì vậy, để khỏi lạc đường trong chính sách, cần phải làm cách mạng, chứ không phải cải cách.”<br /><br />Trong Tuyên Ngôn Cộng Sản, Marx viết: “Bạo lực là bà đỡ của cách mạng” và sau này Mao Trạch Đông phỏng theo: “Quyền lực phát xuất từ họng súng.” Engels cũng nói: “Không có vũ khí phê phán nào thay thế được sự phê phán bằng vũ khí.” <br /><br />Đó là dòng tư duy xuyên suốt từ mâu thuẫn nội tại tới đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng theo luật lượng biến chất biến nhảy vọt và cách mạng bạo lực. <br /><br />Stalin giải thích rõ hơn về tính chất và nhu cầu của đấu tranh giai cấp: “Nếu sự phát triển xuất phát bằng cách bộc lộ những mâu thuẫn nội tại, bằng cách va chạm, xung đột giữa những lực đối kháng trên căn bản của những mâu thuẫn đó, và như thế, để lướt thắng những mâu thuẫn, thì đã rõ cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh.”<br /><br />Tóm lại, theo các nhà duy vật, đấu tranh giai cấp bằng cách mạng bạo lực là lẽ tất yếu. Đấu tranh giai cấp là cuộc chiến giữa hai giai cấp tư bản và vô sản nên bắt buộc là cuộc chiến mang tính toàn cầu vì giai cấp hiện diện ở mọi quốc gia. Đấu tranh giai cấp cũng là cuộc chiến trường kỳ vì chỉ chấm dứt khi chế độ Tư Bản hoàn toàn bị thủ tiêu để hình thành chế độ Cộng Sản trên toàn thế giới. (2) Đó là cuộc chiến ý thức hệ, bắt nguồn từ bản chất ý hệ Mác Xít. <br /><br /> <br /><strong><br /> 2- Chiến lược và sách lược đấu tranh.</strong><br /><br />Xác định đấu tranh giai cấp là tất yếu, nhưng Marx cho rằng cách mạng vô sản chỉ có thể bùng nổ ở những nước tư bản công nghiệp cực thịnh, trong đó giai cấp vô sản chiếm đại đa số. Tại những nước này, giai cấp vô sản trở thành lực lượng áp đảo sẽ đánh bại và tiêu diệt giai cấp tư sản để nắm quyền độc tôn gọi là “chuyên chính vô sản”. (3) Giai cấp vô sản – proletariat, theo Mác, là giới công nhân không có tài sản, nhất là không có phương tiện sản xuất và chuyên chính vô sản là nền thống trị độc tôn của giai cấp đó.<br /><br />Nhưng Lênin lại muốn thực hiện cách mạng vô sản tại Nga là một nước chưa đạt tới mức phát triển cao về công nghiệp. <br /><br />Như thế, nếu chỉ dựa vào riêng giai cấp công nhân để tiến hành cách mạng chắc chắn sẽ thất bại. Nhìn vào thực tế xã hội Nga đầu thế kỷ 20, Lênin giải thích chữ proletariat theo nghĩa rộng hơn gồm cả giới quân nhân phần đông là nông dân cho nên trước tháng 4-1917, Lênin từng chủ trương liên minh công nông chống tư sản. <br /><br />Sau đó, trong những văn kiện đưa ra vào các tháng 4, 7, 8-1917 được Stalin trưng dẫn trong Stalin tuyển tập, Lênin đã thu hẹp từ nông dân thành bần cố nông.<br /><br />Tuy nhiên, theo trích dẫn của Stalin, định nghĩa về “chuyên chính vô sản” của Lênin vẫn không rời xa định nghĩa của Marx: “Nếu chúng ta dịch từ Latinh có tính khoa học – triết lý – sử học “dictature du proletariat”sang ngôn ngữ đơn giản thì nó chỉ có nghĩa như sau: Chỉ có một giai cấp nhất định, là giai cấp của công nhân thành thị, và công nhân công nghiệp nói chung, có khả năng lãnh đạo nhân dân lao động và những người bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh nhằm giải phóng họ khỏi ách thống trị của tư bản, trong tiến trình lật đổ này, trong cuộc đấu tranh để duy trì và củng cố chiến thắng, trong công cuộc tạo lập một hệ thống xã hội mới, hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa, trong cuộc đấu tranh toàn bộ nhắm xóa bỏ hoàn toàn các giai cấp.” (4) <br /><br />Trên thực tế, Lênin từng đưa ra một định nghĩa về “chuyên chính vô sản” hơi khác: “Chuyên chính vô sản là một hình thức liên minh đặc biệt giữa giai cấp vô sản ( proletariat ) là đội tiền phong của nhân dân lao động và nhiều giai tầng nhân dân lao động khác không phải vô sản ( như tiểu tư sản, các tiểu chủ, nông dân và trí thức, vân vân...), hoặc đa số những tầng lớp này. Đó là một sự liên minh chống tư bản, một liên minh nhắm đánh đổ hoàn toàn tư bản, nhắm dẹp bỏ hoàn toàn sự chống đối của giới tư sản và bất cứ cố gắng nào của giai cấp này nhằm tự khôi phục, một liên minh nhắm thiết lập và củng cố chủ nghĩa xã hội.” (5) <br /><br />Định nghĩa được gia giảm này có thể hiểu là do yêu cầu của chiến lược và sách lược đấu tranh nhắm thích ứng với hoàn cảnh thực tế của từng giai đoạn. Tuy nhiên, ngay trong gia giảm đã có sự xác định rõ vai trò lãnh đạo không hề thay đổi. <br /><br />Thực tế đòi hỏi phải liên minh với những phần tử hay giai cấp khác, vì giai cấp vô sản không thể tự mình làm nổi cuộc cách mạng, đặc biệt tại một nước nông nghiệp như nước Nga, nhưng giai cấp vô sản (proletariat) vẫn là đội tiền phong tức ở vị thế nắm quyền lãnh đạo các lực lượng đồng minh. Mọi phần tử không chịu đặt mình dưới sự lãnh đạo đó phải gạt bỏ, thậm chí thủ tiêu và khi đã toàn thắng, không cần sự hỗ trợ của các thành phần khác thì các thành phần này cũng nằm trong thế bị loại trừ không do dự. <br /><br />Vai trò nông dân trong xã hội Nga lúc ấy rất quan trọng nên tại đại hội kỳ 2 Đệ Tam Quốc Tế, Lênin đã cho thành lập tổ chức Quốc Tế Nông Dân (Krestintern). <br /><br />Nhưng khai thác thành phần nông dân vẫn chưa đủ tạo sức mạnh cho phong trào cách mạng vô sản nên Lênin lại đưa ra đề cương về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân nhắm thu phục những dân tộc bị áp bức tại các quốc gia bị trị biến thành lực lượng đồng minh của phong trào. <br /><br />Stalin đã viết về quyết định này của Lênin như sau: “Lênin luôn luôn nhắc đi nhắc lại, không có sự liên minh với quần chúng của các dân tộc khác, thì vô sản Nga đã không chiến thắng. Trong những bài ông viết về vấn đề dân tộc và trong các đại hội Quốc Tế Cộng Sản, Lênin đã nói đi nói lại rằng thắng lợi của cách mạng thế giới sẽ không thể có, nếu không có liên minh cách mạng giữa vô sản của các nước tiên tiến với các dân tộc bị áp bức của các thuộc địa bị nô dịch.” (6) <br /><br />Như vậy, từ căn bản, vấn đề liên minh không hề đặt trên nền tảng tinh thần đoàn kết giữa các thành phần khác nhau mà chỉ là hành vi cần thiết để giành chiến thắng cho phong trào cách mạng vô sản trong một giai đoạn nào đó. Nói một cách khác, liên minh chỉ là vấn đề sách lược trong đó, giai cấp vô sản luôn nắm quyền lãnh đạo và đấu tranh vì mục đích tiến tới chuyên chính vô sản chứ không vì lợi ích của các dân tộc bị trị cũng như lợi ích của các thành phần giai cấp khác.<br /><br />Lênin liên minh với nông dân Nga chỉ vì mục đích giành quyền lãnh đạo cho đảng Bolchevick nên sau khi thành công đã lập tức cho dựng những nông trường tập thể và thẳng tay tiêu diệt các thành phần địa chủ, phú nông. <br /><br />Đây cũng là thực tế diễn ra tại Việt Nam qua trường hợp các Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc… Hồ Chí Minh kêu gọi tinh thần đoàn kết của các tầng lớp yêu nước để phát triển lực lượng đấu tranh và khi nắm được quyền hành thì lập tức ban bố chính sách cải cách ruộng đất để tiêu diệt địa chủ, phú nông và tất cả những ai dám chống lại đường lối lãnh đạo của đảng, đồng thời cho tổ chức các cấp hợp tác xã theo mẫu mực Liên Xô.<br /><br />Hồ Chí Minh đã thực hiện đúng sách lược của Lênin về liên minh và chủ nghĩa dân tộc theo hướng tiến tới thiết lập nền chuyên chính vô sản gom trọn quyền hành trong tay Đảng. <br /><br />Thực ra tại Việt Nam cũng như tại Liên Xô và các quốc gia Cộng Sản khác, Đảng chỉ là một danh nghĩa được vận dụng bởi một thiểu số lãnh đạo. Do đó, phía sau những tấm bình phong đảng tiên phong, đảng của giai cấp công nhân…chỉ là một nhóm cá nhân thi hành những chính sách cai trị bất chấp quyền lợi của nhân dân, kể cả quyền lợi của chính giai cấp được đề cao trong mục tiêu phụng sự. <br /><br />Dù vậy, phong trào cách mạng vô sản luôn gắn bó với quan niệm đấu tranh giai cấp phát xuất từ duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Marx, đồng thời luôn trung thành với quan điểm chiến lược sách lược đấu tranh của Lênin và Stalin (7) để triển khai theo chiều hướng mâu thuẫn nội tại thường trực trong vạn vật là nguồn cỗi đấu tranh bất tận nên mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp Tư Bản bóc lột và giai cấp Vô Sản bị bóc lột là nguồn cỗi đấu tranh trường kỳ cho đến khi giai cấp tư bản bị tiêu diệt.<br /><br />Phát xuất từ định đề này, mọi khái niệm về chiến tranh hay hòa bình, về phương lược vận động, về đối tượng bạn hay thù vv…của cộng sản hoàn toàn khác biệt so với những khái niệm thông thường. <br /><br />Trước hết, đấu tranh giai cấp được hình dung như một cuộc chiến toàn diện, thường trực và trường kỳ nên không nhất thiết phải xác định bằng những cảnh súng nổ bom rơi hay đâm chém chết chóc. <br /><br />“Chiến tranh là kế tục của chính trị bằng những phương tiện khác” và “Hòa bình là kế tục của chiến tranh bằng những phương tiện khác.” <br /><br />Định nghĩa ấy của Von Clausewitz, thày của Frederick Engels, trong khái niệm toàn bộ chiến đã được Cộng sản áp dụng triệt để trong việc theo đuổi mục tiêu cuối cùng và tối cao của đấu tranh giai cấp là “tiêu diệt hoàn toàn giai cấp tư sản”. Đó là chiến lược tổng quát soi sáng và giữ vững tính chất nhất quán cho mọi chiến lược giai đoạn cùng các sách lược cần thiết chiếu theo hoàn cảnh thực tế khác biệt trong từng thời kỳ. <br /><br />Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Stalin phân biệt chiến lược tổng quát là chiến lược chung cho toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp còn chiến lược giai đoạn là những chiến lược cụ thể hơn cho các giai đoạn tương đối dài và lớn. Trong chiến lược cụ thể lại gồm nhiều sách lược giai đoạn, tùy thuộc những điều kiện thực tế của từng thời kỳ tương đối ngắn hơn. Chiến lược giai đoạn hay sách lược đấu tranh giai cấp luôn được hình dung như một cuộc chiến nên luôn đòi hỏi sự xác định mục tiêu, sứ mạng, địa hình địa vật, kế hoạch bố trí lực lượng... và nhất là 3 yếu tố ta, thù, bạn. <br /><br />Trong chiến lược tổng quát, mục tiêu cuối cùng và sứ mạng bất di bất dịch của cuộc chiến là tiêu diệt tư bản nên khái niệm về ta, thù và bạn đã hoàn toàn sáng tỏ. Ta là giai cấp vô sản, thù là giai cấp tư sản và tất cả những ai ủng hộ nó, còn bạn là những ai thuộc các giai cấp khác chịu đứng chung và ủng hộ giai cấp vô sản.<br /><br />Nhưng trong các chiến lược giai đoạn và sách lược vắn hạn, khái niệm này trở nên bất định và vô cùng phức tạp. Tùy theo tình hình thế giới và tình hình địa phương, tùy theo “cao trào hay thoái trào cách mạng”, khái niệm về bạn và thù sẽ thay đổi, kẻ thù chính có thể trở thành kẻ thù phụ, thậm chí có khi tạm trở thành bạn. <br /><br />Trên thực tế, đối với Liên Xô, có lúc Đức là kẻ thù chính khi Liên Xô cần liên minh với Anh – Pháp, có lúc Đức lại trở thành bạn khi do tình hình biến chuyển Liên Xô cần liên minh với Đức chống Anh – Pháp.<br /><br />Qua sách lược vận động cách mạng Nga tháng 10-1917, theo trưng dẫn của Stalin trong Thư gửi đồng chí S. Pokrovsky, ban đầu đảng Bolshevik nêu khẩu hiệu “chuyên chính của giai cấp vô sản và giai cấp nông dân – the peasantry”, nhưng sau đó lại đổi thành “chuyên chính của giai cấp vô sản và giai cấp bần cố nông – the poorest strata of peasantry”. Như vậy, chỉ riêng trong giai đoạn đó thôi, một bộ phận nông dân đã bị gạt ra ngoài cái “ta” tức vừa là bạn đã trở thành thù.. <br /><br /> <br /><br /><strong>3. Vai trò lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế.</strong><br /><br />Do tính toàn cầu của đấu tranh giai cấp, năm 1864 Marx và Engels lập nên một tổ chức chung cho mọi quốc gia, khởi sự từ các nước công nghiệp châu Âu, với tên gọi là Liên Minh Công Nhân Quốc Tế tức Đệ Nhất Quốc Tế. Danh từ Quốc Tế bắt nguồn từ đó. <br /><br />Năm 1889, sáu năm sau khi Marx mất, tổ chức Đệ Nhị Quốc Tế tức Liên Minh Quốc Tế Các Đảng Xã Hội ra đời với đường lối xã hội chủ nghĩa ôn hòa, áp dụng những phương pháp đấu tranh hợp pháp. <br /><br />Lênin chê Đệ Nhị Quốc Tế đi lạc hướng cách mạng bạo lực do Marx chủ trương nên sau khi thành công trong việc cướp chính quyền ở Nga năm 1917 đã thành lập Đệ Tam Quốc Tế vào tháng 3-1919, thường gọi là Quốc Tế Cộng Sản – Komintern hay Comintern, Communist International. <br /><br />Từ đó, cùng với chính quyền Liên Bang Xô Viết, Đệ Tam Quốc Tế đặt trụ sở ở Moscow trở thành tổng hành dinh của phong trào cộng sản thế giới. <br /><br />Dựa vào những thành quả đạt được ở Nga, Lênin đẩy mạnh việc lãnh đạo, điều hành tổ chức này theo đường lối riêng tuy vẫn khẳng định theo đúng chủ nghĩa Marx và luôn trưng dẫn luận điểm của Marx về cách mạng bạo lực và chuyên chính vô sản.<br /><br />Trong tác phẩm Nhà Nước và Cách Mạng, Lênin viết: “Thuyết đấu tranh của Mác về nhà nước và cách mạng xã hội chủ nghĩa đương nhiên đưa đến thừa nhận sự thống trị của giai cấp vô sản và sự chuyên chính vô sản....Chỉ những ai thừa nhận chuyên chính vô sản và sau khi đã thừa nhận đấu tranh giai cấp mới thực sự là người Mác-xít.” (8) Cũng từ đây, chủ nghĩa cộng sản được gọi bằng cái tên Mác xít – Lêninít. <br /><br />Đệ Nhất Quốc Tế và Đệ Nhị Quốc Tế gần như chỉ có ảnh hưởng hạn chế trong phạm vi Âu Châu và không dành được quyền lực ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nên chỉ còn là những dấu tích mờ nhạt trong quá trình vận động phát triển của chủ nghĩa Cộng Sản. <br /><br />Đệ Tam Quốc Tế được chính quyền Liên Xô yểm trợ tối đa về mọi phương diện và chào đời giữa lúc Cách Mạng Vô Sản Nga đang đặc biệt cuốn hút sự lưu tâm của những người đấu tranh ở khắp nơi nên mau chóng phát triển ảnh hưởng tới nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia bị trị tại Đông Nam Á. <br /><br />Năm 1935, khi tổ chức đại hội kỳ 7 tại Mạc Tư Khoa, Đệ Tam Quốc Tế đã quy tụ 76 (9) đảng cộng sản trên 5 lục địa, trong đó có những đảng chưa nắm được chính quyền cũng có cả triệu đảng viên như Nam Dương ở Á châu và Ý ở Âu châu.<br /><br />Theo nội quy Đệ Tam Quốc Tế, đảng cộng sản của bất kỳ quốc gia nào đều chỉ là một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, phải triệt để tuân thủ mọi điều lệ của tổ chức này (10) trong đó, điều 14 đòi các đảng thành viên phải đặt dưới sự kiểm soát của đảng Cộng Sản Nga, phải triệt để ủng hộ các cộng hòa Xô Viết mà sau năm 1922 đã trở thành Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Xô Viết, và điều 16 quy định mọi đảng cộng sản chỉ là chi nhánh của một đảng toàn cầu duy nhất là Quốc Tế Cộng Sản hay QT3.<br /><br />Trên thực tế, Đệ Tam Quốc Tế hay Quốc Tế Cộng Sản do Lênin thành lập và hoạt động với phương tiện của Liên Xô nên ngay từ ban đầu đã mặc nhiên đồng hóa với Liên Xô. Liên Xô không những được coi là thành trì Cách Mạng Vô Sản mà còn giữ vai trò đầu não quyết định mọi phương hướng tiến lui cho tất cả các đảng Cộng Sản trên thế giới. Vì thế, ảnh hưởng và quyền lực của Đệ Tam Quốc Tế đối với tất cả các đảng Cộng Sản trên thế giới chính là ảnh hưởng và quyền lực của giới lãnh đạo Liên Xô, cụ thể là Lênin và người kế vị, Stalin, từng được mệnh danh là nhà độc tài áo đỏ – để phân biệt với nhà độc tài áo đen Mussolini và nhà độc tài áo nâu Hitler. <br /><br />Nói một cách khác, trong khi hết thẩy các đảng cộng sản trên thế giới phải tuân thủ mọi điều lệ của Đệ Tam Quốc Tế, phải chấp hành mọi chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế thì người đề ra các điều lệ và ban bố mọi chỉ thị chính là Lênin và sau đó là Staline. Trong tình huống này, mọi điều lệ và chỉ thị đương nhiên phải đặt quyền lợi của Liên Xô lên hàng đầu và phải phản ảnh trung thực mọi quan điểm của Lênin và Staline. <br /><br />Cụ thể là bản Luận cương về chủ nghĩa dân tộc và các vấn đề thuộc địa của Lênin đã trở thành nền tảng định hướng cho mọi hoạt động của Đệ Tam Quốc Tế từ khi xuất hiện và kể từ đại hội kỳ 7 năm 1935, Đệ Tam Quốc Tế đã coi tất cả những người tán thành đường lối của Trotski là kẻ địch phải tận diệt, chỉ vì Trotski chống lại Stalin. <br /><br />Cụ thể hơn nữa là việc Stalin đơn phương quyết định giải tán tổ chức này vào tháng 6-1943 khi Liên Xô cần được Đồng Minh viện trợ để chống lại sức tấn công của Đức. Trước thái độ nghi ngại của Mỹ về hiểm họa Cộng Sản, việc giải tán Đệ Tam Quốc Tế đã được đặt ra và quyết định tức khắc bởi Stalin, dù ban lãnh đạo của tổ chức gồm nhiều thành viên mang các quốc tịch khác trên khắp thế giới. <br /><br />Thực ra, việc giải tán chỉ là một thủ đoạn thay hình đổi dạng nhưng điều quan trọng là các thành viên khác chỉ có thể tham gia bằng cách tuân thủ quyết định của Stalin nhắm bảo vệ trước hết quyền lợi của riêng Liên Xô. <br /><br />Với Liên Xô, Đệ Tam Quốc Tế đơn thuần là một tổ chức công cụ trực thuộc quyền điều động của Stalin, nhưng với tất cả các đảng Cộng Sản hoặc các quốc gia Cộng Sản khác, Đệ Tam Quốc Tế luôn luôn là một cơ quan chỉ đạo tối cao, ngoại trừ Nam Tư tách khỏi tổ chức này từ năm 1948. <br /><br />Cho nên, ngoại trừ Nam Tư, mọi đảng Cộng Sản hoặc các quốc gia Cộng Sản trên thế giới đều phải trung thành với bản nội quy của Đệ Tam Quốc Tế, tự đặt mình dưới quyển kiểm soát của đảng Cộng Sản Nga và trung thành với tư cách một chi nhánh của Đệ Tam Quốc Tế. <br /><br />Đảng Cộng Sản Việt Nam không thể vượt khỏi tình trạng này nên mới có lời dẫn giải của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được Trần Văn Giàu ghi lại như sau: "Cách mạng này là một phần của cách mạng thế giới. Mà cách mạng thế giới là gì thì không phải là đã hiểu rõ, đã nhất trí. Chánh thức được Nguyễn Ái Quốc trình giảng thì đó là cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ tư bản chủ nghĩa; chế độ tư bản đế quốc là chế độ sinh ra chế độ thực dân. Chúng ta làm cách mạng đánh đế quốc thực dân tức là đánh tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó có qui mô thế giới mà cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận. Cách mạng Việt Nam được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, và cách mạng Việt Nam góp phần vào cuộc cách mạng thế giới đó.” <br /><br /><br /><strong>4. Võ khí chính trong chiến tranh ý hệ: Tuyên truyền. </strong><br /><br />Ý hệ Mác Xít là một hệ thống ý tưởng vừa mang tính xã hội, vừa mang tính chính trị thời đại. Chủ trương chiến tranh hay đấu tranh giai cấp nằm trong nội dung ý hệ này. <br /><br />Trái lại không có một ý hệ tư bản. Tư bản chỉ có một hệ thống các biện pháp kinh tế. Vì vậy cuộc chiến ý hệ đúng ra chỉ là cuộc chiến do cộng sản chủ xướng và phía tư bản chỉ tiến hành chiến tranh tự vệ khi bị tấn công – dù thường được hiểu sai theo cộng sản tuyên truyền, là cuộc chiến giữa ý hệ tư bản và ý hệ cộng sản.<br /><br />Cao nhất trong ý hệ Mác Xít là Niềm Tin giai cấp vô sản sẽ toàn thắng và lên nắm quyền chuyên chính khởi từ xác quyết đây là quy luật tất yếu của lịch sử. Niềm Tin không gì lay chuyển này đương nhiên phải tràn lan khắp nơi theo tiến trình chuyển hóa lịch sử như đã được thể hiện bằng sự tràn lan của ý niệm nô lệ thay cho cộng sản nguyên thủy, ý niệm tư bản thay cho phong kiến vv… Nhưng thay vì chờ đợi sự chuyển hóa tiệm tiến theo thời gian, Cộng Sản chủ trương thúc đẩy diễn trình chuyển hóa bằng đấu tranh cách mạng tức tiến hành đấu tranh truyền bá tràn lan ý niệm và niềm tin đặt vào nền chuyên chính vô sản. Vì đấu tranh cách mạng là cuộc chiến ý hệ hay đấu tranh truyền bá tràn lan ý niệm và niềm tin nên võ khí và phương pháp tiến hành chiến tranh không thể sở cậy riêng vào súng đạn mà phải vận dụng nhiều hình thức hoạt động khác theo một cách thế hòa nhịp tuyệt hảo để đạt hiệu quả truyền bá sâu rộng khắp nơi ý niệm và niềm tin trên. Do đó mới nói “tuyên truyền phát xuất từ bản chất chiến tranh ý thức hệ của cộng sản”. <br /><br />Vì võ khí chính để dùng ý tưởng đối chọi ý tưởng là tuyên truyền. Ý tưởng nào chinh phục được đối tượng sẽ giành phần thắng nên cần tranh đua tạo nên những ý mạnh đủ sức chinh phục đối tượng. Ý mạnh có thể vì bản chất nó mạnh, nhưng cũng thường chỉ vì được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, dĩ nhiên, với một sự hòa nhịp có kỹ thuật, nghệ thuật. Đó là nghệ thuật tuyên truyền tuyệt diệu trong cái gọi là Orchestration của những nhà tuyên truyền trứ danh. (11) <br /><br />Tuyên Ngôn Cộng Sản lần đầu tiên xuất hiện như một kiệt tác tuyên truyền, làm rúng động thế giới một thời. Đây là tiếng pháo lệnh mở đầu cho hàng hàng lớp lớp những ý tưởng xông lên tiến công vào thành quách Tư Bản chủ nghĩa, là nguồn cảm hứng, là động lực cho mọi hoạt động tuyên truyền từ đó tới khi bức tường Bá Linh sụp đổ. <br /><br />Cách mạng tháng 10 ở Nga, cách mạng tháng 8 ở Việt Nam, hay những trận Điện Biên, trận tổng công kích Tết Mậu Thân... đều mang dấu ấn của nó. Có thể nói tuyên ngôn cộng sản là khởi điểm cho một chiến dịch tuyên truyền bất tận được tiếp nối bằng toàn bộ công trình bao gồm nhiều mặt hoạt động của các lãnh tụ cộng sản sau này từ Lênin, Stalin, đến Mao Trạch Đông....<br /><br />Trong hồi ký Khrutshchev Remembers, lãnh tụ Liên Xô Khrutshchev khen Hồ Chí Minh là “tông đồ” nhiệt thành của chủ nghĩa Cộng Sản. (12) <br /><br />Sứ mạng của tông đồ là truyền bá đức tin như hết thẩy đã biết qua việc Chúa Giêsu chọn 12 tông đồ rao giảng về Ơn Cứu Độ để truyền bá đạo Chúa ra khắp thế giới. Truyền bá đức tin theo tiếng Latinh là De Propagande Fide. Hai chữ tuyên truyền có nguồn gốc là chữ Propagande này.<br /><br />Tuyên truyền không cần tới bom đạn mà chỉ cần ý niệm biểu lộ qua lời nói, hay bất cứ hình thức chuyển ý nào khác. <br /><br />Vận dụng võ khí tuyên truyền không đòi hỏi điều kiện tốn kém về trang bị, không đòi hỏi hình thành những mặt trận rõ ràng, không đòi hỏi phải có những đạo quân võ trang hùng hậu… đặc biệt là không cần chém giết nhưng lại thâu hoạch thành quả có thể vượt xa mọi tầm mức của những trận đánh bằng bom đạn.<br /><br />Vận dụng võ khí tuyên truyền chỉ đơn giản là chuyển đạt ý mình sang đối phương để ảnh hưởng tới ý tưởng, tâm tư, tình cảm và quyết định của đối phương hầu trực tiếp hoặc gián tiếp buộc đối phương làm theo ý mình như khái niệm về giành đoạt mục tiêu trong chiến tranh của Clausewitz. <br /><br />Vận dụng võ khí tuyên truyền không chỉ tiêu hao binh lực đối phương mà phá vỡ toàn bộ hoạt động của đối phương bằng lũng đoạn, khuynh đảo, thao túng, xách động ngay trong nội bộ đối phương theo chiều hướng dồn ép tới thế tự sụp đổ. <br /><br />Vận dụng võ khí tuyên truyền còn mở ra những trận đánh trường kỳ liên tục biến hóa khôn lường tùy hoàn cảnh thực tế và vô cùng đa dạng vì có thể khai thác mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội, học đường, thông tin, nghệ thuật …<br /><br />Ba yếu tố chủ yếu trong vận dụng võ khí tuyên truyền là lý tưởng hay chính nghĩa, biểu tượng và thần tượng. <br /><br />Về lý tưởng, tuyên truyền nhắm truyền bá và củng cố nơi các đối tượng một niềm tin tuyệt đối vào chính nghĩa Cách Mạng Vô Sản hay đấu tranh giai cấp với mục tiêu cuối cùng bất di bất dịch là tiêu diệt tư bản để tiến tới vô sản chuyên chính trên toàn thế giới. Nhưng vì cuộc chiến gồm nhiều giai đoạn chiến lược nên tùy thời điểm, tùy cao trào hay thoái trào, có những lúc cần che giấu lý tưởng Cách Mạng Vô Sản bằng cách trưng ra những chiêu bài thích ứng với thực tế giai đoạn như Đoàn Kết Dân Tộc, Bảo Vệ Tự Do, Tranh Thủ Độc Lập vv… theo đúng sách lược Lênin – đường đi tới Paris phải qua ngả Bắc Kinh. Cụ thể là trước những đám đông quần chúng đang khao khát dành chủ quyền độc lập hãy khoan nói đến tiêu diệt tư bản, khoan nói đến chuyên chính vô sản mà chỉ nói chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc. Giải phóng dân tộc rồi thì lực lượng vô sản lớn thêm lên trong khi thực dân đế quốc yếu đi và lúc đó sẽ nhắm tới tư bản. <br /><br />Nói cách khác, tuy lý tưởng là bất di bất dịch, nhưng cần linh hoạt thu hút quần chúng đi theo Đảng để tạo sức mạnh tranh thủ quyền lực cho Đảng, rồi sau đó sẽ củng cố quyền lực của Đảng để tiến tới chuyên chính độc tôn. <br /><br />Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng cho chính nghĩa đồng thời cũng là một lời nhắc nhở để vừa nhìn thấy là nhớ ngay mục tiêu phải nhắm, công tác phải làm và thái độ phải có. Biểu tượng của đấu tranh giai cấp là hình ảnh búa, liềm và màu đỏ theo quốc kỳ Liên Xô cũng là đảng kỳ của các đảng cộng sản. Tương tự như lý tưởng luôn được viện dẫn, cổ võ với mọi đảng viên, biểu tượng luôn luôn xuất hiện trong mọi dịp sinh hoạt nội bộ. <br /><br />Nhưng cũng như lý tưởng, đối với các đám đông quần chúng chưa sẵn sàng chấp nhận Cách Mạng Vô Sản hoặc trong những trường hợp hướng nhắm của quần chúng hoàn toàn khác biệt với mục tiêu của Cách Mạng Vô Sản, biểu tượng có thể cần phải che lấp bằng những hình ảnh biểu tượng khác. <br /><br />Chính vì thế tại Việt Nam cho đến năm 1975, biểu tượng búa liềm gần như chỉ xuất hiện trong các sinh hoạt nội bộ Đảng Cộng Sản.<br /><br />Yếu tố thứ ba không kém phần quan trọng là thần tượng. Trong mọi tôn giáo, thần tượng chiếm ví trí hàng đầu. Cộng sản là một chủ nghĩa độc tôn, một thứ tôn giáo vô thần nên cũng phải có thần tượng. <br /><br />Thần tượng số một của Cộng Sản là Marx với vị thế của đấng sáng tạo chỉ đường vạch hướng cho nhân loại. Nhưng để mỗi bước đi của mọi người luôn theo đúng đường hướng đã được chỉ vạch lại cần có những vị thần dắt dẫn. <br /><br />Những vị thần này chính là lãnh tụ của các đảng Cộng Sản như Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Titô, Hồ Chí Minh. Tuy những vị thần này không thể sánh ngang với Marx, nhưng cũng là những thần tượng được tuyệt đối tôn sùng. <br /><br />Trên thực tế, những thần tượng này còn được nhắc nhở nhiều hơn so với Marx vì tương quan gắn bó với mọi hoạt động đấu tranh diễn ra trước mắt. Marx chỉ tượng trưng cho chủ nghĩa Cộng Sản nên dù được đặt ở vị thế tối cao vẫn không thể quan trọng bằng những thần tượng có vai trò trực tiếp quyết định sự thành bại cho các phong trào đấu tranh. <br /><br />Thần tượng không chỉ là hình ảnh tượng trưng để những thành viên của phong trào bày tỏ thái độ kính ngưỡng mà còn là lợi khí thu phục nhân tâm đối với các đám đông quần chúng.<br /><br />Trong thực tiễn đấu tranh, sức hút của lý tưởng nhiều khi không thể sánh ngang sức hút của người lãnh đạo đấu tranh nên với vai trò tượng trưng cho phong trào, các thần tượng loại này không những trở thành bất khả xâm phạm mà còn được tô vẽ bằng mọi màu sắc, hình ảnh tuyệt vời. <br /><br />Với cuốn sách mỏng Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chỉ Tịch dưới bút danh Trần Zân Tiên, điêu khắc gia họ Hồ đã phác họa những nét chính và khởi công tạo nên một bức tượng làm lợi khí sắc bén cho mặt trận tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam.<br /><br />Theo luật lượng biến chất biến và đột biến của duy vật biện chứng, hiệu quả tuyên truyền sẽ là tất yếu sau quá trình lập lại liên tục những lời lẽ diễn tả một điều nào đó, dù là không có thật – nhiều lời trở thành lời hay, lập lại nhiều lần thì không sẽ thành có. Quy luật biện chứng duy vật này cũng phù hợp với quy luật tâm lý thực nghiệm “phản ứng điều kiện” của thuyết Pavlov và được áp dụng triệt để vào tuyên truyền.<br /><br />Tuyên truyền được coi là võ khí chủ yếu trong tiến hành đấu tranh nên cũng là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong hoạt động của mọi đảng Cộng Sản. <br /><br />Đệ Tam Quốc Tế lập hẳn một bộ phận chuyên trách về tuyên truyền là Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế trong khi tổ chức chính quyền của mọi quốc gia Cộng Sản đều có Bộ Tuyên Truyền và tuyên truyền trở thành một bộ môn nghiên cứu, huấn luyện để tiếp tục nâng cao hiệu quả. <br /><br />Trong tác phẩm Il est moins cinq, nữ sĩ Suzanne Labin đã cho thấy mức tập trung nỗ lực của khối Cộng Sản vào tuyên truyền qua nhiều sự việc và những con số cụ thể. <br /><br />Theo Suzanne Labin, trong thập niên 1950, kinh phí hàng năm dành cho tuyên truyền của Liên Xô là 2 tỷ mỹ kim và số nhân viên chuyên trách về tuyên truyền là nửa triệu. <br /><br />Tại Mexico, một xứ 30 triệu dân trong đó chỉ có khoảng 10 ngàn người tham gia đảng Cộng Sản và tại Quốc Hội chỉ vỏn vẹn có một dân biểu, một nghị sĩ Cộng Sản, nhưng Cộng Sản Mexico đã cho xuất bản 7 tờ nhật báo bên cạnh một số tuần báo và báo định kỳ khác. Đó là chưa kể nỗ lực xâm nhập 2 tờ nhật báo lớn Novedales và Excelsior. <br /><br />Về phát thanh, Hoa Kỳ nổi tiếng có nhiều đài phát thanh nhất thế giới, nhưng theo Suzane Labin, thời lượng thông tin của Hoa Kỳ cuối thập niên 1950 không bằng một phần tư thời lượng phát thanh tuyên truyền của Liên Xô. <br /><br />Các đài Liên Xô còn đồng loạt thực hiện các chương trình phát thanh bằng tiếng Pháp nhắm vào các xứ thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi liên tục tấn công chế độ thực dân trong khi Pháp không có một chương trình nào để đối phó.<br /><br />Theo Leland Stowe, “năm 1956, Trung Cộng đã bịt miệng một tờ nhật báo chống cộng ở Miến Điện bằng cách dúi cho ông chủ báo một mối lợi lớn: cho ông gia nhập công ty thương mại béo bở của họ ở Đông Phương. Họ cũng làm như thế với nhiều chủ báo khác và đến cuối năm Miến Điện đã có 5 tờ báo thân cộng”. (13)<br /><br />Douglas Pike cho biết năm 1935, Cộng Sản Việt Nam ấn hành đều đặn 30 tờ báo. <br /><br />Võ khí tuyên truyền trở thành võ khí chiến lược hàng đầu của đấu tranh giai cấp trước hết vì giai cấp vô sản không thể có võ khí tối tân như giai cấp tư bản. <br /><br />Do đó, để đương đầu với kẻ địch được trang bị đầy đủ chỉ có thể sở cậy vào lời nói là thứ võ khí luôn có sẵn. Sử dụng võ khí này lại luôn luôn ở vị thế tấn công tức là nắm vững quyền chủ động, đồng thời có thể mở những trận đánh kéo dài vô tận ở bất kỳ nơi nào, nhắm vào bất kỳ mục tiêu nào được bảo vệ nghiêm mật nhất của địch. <br /><br />Bom đạn có thể đương đầu với bom đạn nhưng không thể ngăn chặn được dư luận trong khi lời nói có thể tạo những dư luận biến thành áp lực buộc bom đạn phải ngưng tiếng hoặc thúc đẩy một tình trạng phân hóa dẫn đến tan rã trong hàng ngũ địch. <br /><br />Trong cuộc chiến Việt Nam trước năm 1975, võ khí tuyên truyền được khối Cộng Sản triệt để vận dụng đã thúc đẩy tâm trạng phản chiến ngay trên đất nước Mỹ, tạo thành áp lực dư luận khiến chính giới Mỹ phải từ bỏ cuộc chiến dẫn tới cái kỳ tích là châu chấu đá nghiêng xe. <br /><br />Riêng trong khuôn khổ cuộc hội đàm Paris, võ khí tuyên truyền được vận dụng dưới nhiều hình thức đã khiến nhiều thành phần dân chúng, nhiều nhân vật tên tuổi trên thế giới tin rằng Cộng Sản Việt Nam là những người yêu nước, yêu tự do đang đấu tranh bênh vực cho nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam. <br /><br />Kết quả thực tế mà võ khí tuyên truyền mang lại là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một công cụ của chính quyền Cộng Sản Hà Nội, đã được ngồi ngang với Mỹ trong bàn hội nghị và đại diện của tổ chức công cụ này là Nguyễn Văn Hiếu được đức Giáo Hoàng đích thân tiếp kiến tại thư viện Vatican. <br /><br />Trong khi đó, một cán bộ nhân viên ngoại giao tầm thường của Hà Nội là Nguyễn Thị Bình được báo chí thế giới coi như một yếu nhân chính trị Việt Nam và Lê Đức Thọ đã đạt vinh dự nhận lãnh giải Nobel Hòa Bình …<br /><br />Đây là những kết quả không thu hoạch từ bom đạn mà từ lời nói với tư cách võ khí tuyên truyền. <br /><br />Lời nói với tư cách võ khí tuyên truyền không chỉ đơn thuần là ngôn ngữ mà là sự truyền đạt ý tưởng – cụ thể là truyền đạt một dụng ý – bằng vô hạn hình thức từ ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi, thủ đoạn, trang phục, phong thái… <br /><br />Lời nói với tư cách võ khí tuyên truyền là hành vi cắt tóc của Tào Tháo, hành vi ném con của Lưu Bị trong truyện Tam Quốc (14)…và cách chọn y phục của Hồ Chí Minh khi đi gặp tướng Tiêu Văn tại Hà Nội năm 1945 qua lời thuật lại của Võ Nguyên Giáp: “Bác chỉ định mấy đồng chí cùng đi. Thấy một đồng chí mang dép, Bác bảo về nhà thay giày. Bác nói: “Khi nào gặp “người ta”, tôi ăn mặc thế nào cứ mặc tôi, nhưng các chú thì phải cho tề chỉnh”. (15) <br /><br />Từ cuối thập kỷ 1920, mục tiêu của chủ thuyết Cộng Sản, chiến lược sách lược đấu tranh giai cấp, vai trò lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế và võ khí tuyên truyền đã trở thành những tác nhân chủ yếu đối với mọi phong trào cách mạng Việt Nam. <br /><br />Những tác nhân này đã chia lực lượng cách mạng Việt Nam thành hai dòng đối nghịch khơi nguồn cho một cuộc chiến tới nay còn tiếp tục là đề tài tranh cãi về thực chất.<br /><br /> Với một số người, cuộc chiến Việt Nam từ 1945 là cuộc chiến của nhân dân Việt Nam do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo chống lại các lực lượng ngoại xâm, cụ thể là hai cường quốc Pháp – Mỹ. <br /><br />Hướng nhìn này xác định mục tiêu rõ rệt của cuộc chiến là giải phóng dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia nên Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam được tuyên dương là anh hùng yêu nước, cha già dân tộc do có công đánh đuổi thực dân đế quốc, thống nhất đất nước. <br /><br />Nhưng cũng không ít người bác bỏ với nhiều lý do, đặc biệt là sự kiện nhiều triệu người dân Việt Nam đã chấp nhận đương đầu với cả cái chết để thoát khỏi cảnh sống tại quê hương sau khi được giải phóng. <br /><br />Một chuyên gia về Việt Nam là Duncanson còn quả quyết đảng Cộng Sản Việt Nam không bao giờ là một lực lượng đấu tranh yêu nước mà ngược lại, gần như là một lực lượng chống lại những người yêu nước đấu tranh chống thực dân – almost anti-anti-colonial.<br /><br />Tính phức tạp của cuộc chiến Việt Nam xuất phát từ sự bác bỏ hoặc lượng định khác biệt về dấu ấn Cách Mạng Vô Sản Nga dẫn tới những gắn kết được gán ghép trái ngược với cục diện thế giới đương thời. <br /><br />Trên thực tế, không thể chối bỏ Cách Mạng Vô Sản Nga đã đặt toàn thế giới vào thế đối đầu do mục tiêu thanh toán giai cấp tư bản để thiết lập chuyên chính vô sản nên từ đó đã khởi diễn cuộc chiến tranh ý thức hệ mang tính toàn cầu giữa các quốc gia Tây Phương với khối Cộng Sản do Liên Xô lãnh đạo. <br /><br />Bất kể các quốc gia Tây Phương có theo đuổi một ý thức hệ nào hay không, chiến tranh ý thức hệ vẫn hiện hữu do mục tiêu cuối cùng của chủ thuyết Cộng Sản đòi hỏi phải tiến hành mọi nỗ lực chiến tranh từng ngày từng giờ cho tới khi toàn bộ giai cấp tư bản bị tiêu diệt. <br /><br />Chiến tranh không chỉ tiến hành bằng súng đạn mà bằng mọi phương tiện, không chỉ nhắm triệt hạ binh lực địch mà nhắm tiêu diệt toàn bộ địch, không chỉ đối đầu với địch ở một lãnh vực nào mà tấn công trên khắp các lãnh vực sinh hoạt... <br /><br />Chiến tranh không cần lý do, không cần tuyên chiến, bất chấp mọi thái độ kể cả thiện chí hòa bình của kẻ địch vì nằm trong quy luật tất yếu của tiến trình sinh hóa với tính chất thường trực và trường kỳ. <br /><br />Trong cuộc chiến tranh tất yếu này, hết thẩy các phong trào cộng sản trên thế giới đều phải tuân thủ sự chỉ đạo của tổ chức Đệ Tam Quốc Tế, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau bằng mọi cách tùy theo vị thế tương quan. <br /><br />Cho nên Hồ Chí Minh mới xác định “cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận. Cách mạng Việt Nam được sự ủng hộ của cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam góp phần vào cuộc cách mạng thế giới đó – cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ tư bản chủ nghĩa”.<br /><br />Do đó, dù muốn dù không vẫn phải đặt cuộc chiến Việt Nam vào bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa một bên là Cộng Sản và một bên là Tư Bản, theo quan niệm của Cộng Sản, kể cả khi phủ nhận sự hiện diện của một ý thức hệ Tư Bản. <br /><br />Trong bối cảnh này, mọi cuộc chiến do Cộng Sản chi phối diễn ra ở bất kỳ nơi nào cũng đều không thoát khỏi tính cục bộ của chiến tranh ý thức hệ với mục tiêu giành quyền chuyên chính cho giai cấp Vô Sản – được đại diện bởi đảng Cộng Sản Nga hoặc chính quyền Liên Xô – dù mang bất kỳ chiêu bài nào.<br /><br />Bác bỏ tính cục bộ của cuộc chiến Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu là điều bất khả. Vì Hồ Chí Minh đã gia nhập Đệ Tam Quốc Tế từ tháng 12-1920, trở thành ủy viên Hội Đồng Quốc Tế Nông Dân từ tháng 10-1923, công tác tại Bộ Phương Đông Đệ Tam Quốc Tế từ ngày 14-4-1924 và Cộng Sản Việt Nam đã được chính thức nhìn nhận là một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế từ tháng 3-1931. <br /><br />Vấn đề còn lại chỉ là thẩm định mức độ dấu ấn của Cách Mạng Vô Sản Nga trong cuộc chiến Việt Nam qua những tiêu điểm về chủ thuyết Cộng Sản, về chiến lược sách lược, về vai trò chỉ đạo của Đệ Tam Quốc Tế và về sự vận dụng võ khí tuyên truyền. <br /><br />Mức độ dấu ấn này chính là những tiêu chuẩn định giá vững chắc về con người Hồ Chí Minh đồng thời cũng là lời giải đáp cho hàng loạt nghi vấn đang có.<br /><br /> <br /><br />CHÚ THÍCH<br /><br />CHƯƠNG 43<br /><br />_____________________________<br /><br />(01) Trong tác phẩm Sách Lược Xâm Lăng của CS của Minh Võ, Saigon, 1963, tác giả đã dành 200 trang tóm tắt những khái niệm này. Ở đây chỉ xin nêu một số điểm hết sức đại cương.<br /><br />(02) Cả Marx, Engels lẫn Lênin, Stalin đều không nói đến một chế độ nào tốt hơn sau chế độ cộng sản, giống như lịch sử loài người đến đó là chấm dứt. Vì nếu theo đúng luật biện chứng thì chế độ cộng sản không thể không chứa sẵn trong mình cái mầm mâu thuẫn để tự hủy diệt hầu phát sinh cái mới tiến bộ hơn.<br /><br />(03) Cụ thể là “độc tài đảng trị” (đảng của giai cấp vô sản). Marx dùng tiếng Đức được dịch ra tiếng Anh là “dictatorship of the proletariat”. Bình thường chữ dictator được hiểu là độc tài. Nhưng CSVN và TC muốn gán cho từ đó một ý nghĩa “cao cả” nên đổi thành “chuyên chính”. <br /><br />(04) Lênin toàn tập, tập IX, tr. 432, ghi theo Stalin.<br /><br />(05) Lênin toàn tập, tập XXIV, bản Nga ngữ , tr. 311, cước chú của Stalin<br /><br />(06) Stalin tuyển tập, bản Anh ngữ – International Publishers, New York 1942, tr. 14. <br /><br />(07) Theo ngôn ngữ Tây Phương như tiếng Nga, Anh, Pháp … thì đó là chiến thuật – tactics. Trung Cộng và CS Việt Nam không dùng từ chiến thuật mà thay bằng từ sách lược có phần chính xác và đầy đủ hơn với khái niệm chiến tranh giai cấp của Marx là cuộc chiến toàn bộ, toàn diện và trường kỳ. Từ chiến thuật chỉ dùng để nói về những phương pháp chiến tranh thuần túy quân sự.<br /><br />(08) Theo Di Sản Mác-xít tại Việt Nam của Đỗ Mạnh Tri, Cali, 2002, tr. 88. <br /><br />(09) Tại đại hội các đảng cộng sản và công nhân thế giới năm 1960, khi không còn Đệ Tam Quốc Tế nữa, có sự hiện diện của 81 trên tổng số 87 đảng. <br /><br />(10) Do điều lệ này nên trong biên bản hội nghị thứ 11 của ban chấp hành Đệ Tam Quốc Tế, cuối tháng 3 năm 1931, ghi rõ “Hội nghị nhất trí thông qua nghị quyết công nhận đảng Cộng Sản Đông Dương là một chi bộ độc lập của Quốc Tế Cộng Sản”. <br /><br />Về chi tiết, xin đọc Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin của Hồng Hà. <br /><br />(11) Xin xem 2 chương 6–7, Tâm Sự Nước Non của Minh Võ, Tiếng Quê Hương, Virginia 2002.<br /><br />(12) Xem chương 42 phần II.<br /><br />(13) Về chi tiết khác, xin đọc Sách Lược Xâm Lăng của CS của Minh Võ xb tại SàiGòn 1963, 1970, hiện có lưu trữ trong thư viện Quốc Hội Mỹ và các trường đại học Seattle, WA, Cornell, NY, Wisconsin... từ tr. 92- 98.<br /><br />(14) Trong Tam Quốc Chí, Tào Tháo hạ lệnh xử chém bất kỳ binh sĩ nào trên đường hành quân mà có hành vi nhiễu hại dân chúng. Sau khi quân lệnh được ban ra, chính Tào Tháo lại vô tình phóng ngựa làm hư hại một khu ruộng lúa. Tào Tháo gọi hình quan tới luận tội mình. Hình quan không dám luận tội chủ soái nên Tào Tháo dùng gươm cắt đứt mái tóc coi như chính mình đã chịu hình phạt chém đầu. <br /><br />Phần Lưu Bị thua chạy trong trận Đương Dương, con trai là A Đẩu được Triệu Tử Long cứu thoát. Khi Tử Long bồng A Đẩu đưa cho Lưu Bị, Lưu Bị lập tức quăng con xuống đất và la lớn: “Chỉ vì mi mà ta suýt mất một viên đại tướng” <br /><br />(15) Những năm tháng không thể nào quên của Võ Nguyên Giáp, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 2001, tr. 87Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159069262561818412006-09-24T13:39:00.000+10:002006-09-24T13:41:06.896+10:00* Chương 44* HỒ CHÍ MINH và sự du nhập chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt NamTrong tháng 10 và 11 năm 2002 xuất hiện hai tác phẩm của hai nhà khoa bảng cùng đề cập tới chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam. Đó là cuốn Cộng Sản trên đất Việt của giáo sư tiến sĩ luật khoa Nguyễn Văn Canh và cuốn Di sản Mác-xít tại Việt Nam của giáo sư tiến sĩ triết học Đỗ Mạnh Tri. <br />Nội dung cả hai tác phẩm chú trọng tới những tác hại mà chủ nghĩa Cộng Sản gây ra cho xã hội Việt Nam nhưng cũng khơi gợi người đọc liên tưởng tới những người tiên phong du nhập chủ nghĩa này.<br />Cho tới nay, khi nhắc về chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, hầu hết đều nghĩ ngay tới Hồ Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh là người đến sau so với rất nhiều người trong hàng ngũ tiên phong truyền bá tư tưởng Cộng Sản tại Việt Nam. <br />Trên thực tế, từ những năm đầu thập kỷ 1920, chủ nghĩa Cộng Sản đã vào Việt Nam gần như tự do qua sách báo bằng tiếng Pháp, tiếng Hoa giống như các triết thuyết hay học thuyết xã hội khác. <br />Truyền thống tự do tư tưởng Pháp đã góp phần tạo nên thực tế này, mặc dù chính quyền thực dân thuộc địa không tán thành. Qua nguồn sách báo, một số trí thức Việt Nam thông hiểu ngoại ngữ tiếp xúc với luồng tư tưởng mới này đã tỏ ra ngưỡng mộ tán thành tương tự nhiều nhà trí thức nổi tiếng đương thời trên thế giới.<br />Chủ nghĩa Cộng Sản xâm nhập lúc đó là chủ nghĩa Marx thuần túy nặng về tư tưởng triết học, cải cách xã hội qua sách báo tiếng Pháp hoặc qua những tác phẩm có tính nghiên cứu như Mã Khắc Tư chủ nghĩa, Liệt Ninh chủ nghĩa của các học giả Trung Hoa Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi ... <br />Xu hướng vận động chuyển hóa theo chủ nghĩa Cộng Sản lúc đó là xu hướng ôn hòa và hợp pháp của phong trào Đệ Nhị Quốc Tế. Vì vậy, những người tiên phong tán thành và truyền bá chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam tập trung nỗ lực vào các hình thức đấu tranh tư tưởng trong phạm vi văn hóa xã hội với các hoạt động như viết báo, diễn thuyết, hội thảo… <br />Những nhân vật đấu tranh nổi tiếng trong thời điểm này như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường ... đều tỏ ra tin tưởng ở hiệu năng xây dựng xã hội của chủ nghĩa Cộng Sản. Những nhân vật trên đã được phép xuất bản báo để công khai cổ võ cho nguyện vọng cải cách xã hội và truyền bá chủ nghĩa Cộng Sản qua sự hiện diện của các tờ La Cloche Fêlée, L’Annam từ 1923 và La Ressurection, Đuốc Vô Sản, La Lutte, Tranh Đấu ... từ 1928… <br />Nhưng kể từ 1926, tiếng vang lớn của Cách Mạng Vô Sản Nga và sự thắng thế của Đệ Tam Quốc Tế với chủ trương đấu tranh bằng bạo lực bắt đầu giới thiệu một bộ mặt khác hơn của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam. <br />Lấy tuyên truyền làm võ khí chủ yếu nên Đệ Tam Quốc Tế không coi nhẹ các phương thức vận động đang được mọi người theo đuổi. Tuy nhiên, hướng nhắm của phương thức này không còn đơn thuần là thay đổi quan điểm chính trị của quần chúng mà trực tiếp vận động quần chúng bạo động chống chính quyền. <br />Do đó, hoạt động xuất bản sách báo, diễn thuyết, hội thảo … có đích nhắm rõ rệt hơn: vận động tổ chức các hội đoàn bí mật, lôi cuốn quần chúng tham gia đình công, bãi thị, mít tinh, biểu tình đồng thời thúc đẩy nổi dậy và tiến hành khủng bố khi gặp điều kiện thuận lợi. <br />Chủ nghĩa Cộng Sản không còn thuần túy là một học thuyết xã hội mà là một chủ thuyết đấu tranh. Vì đây là chủ nghĩa Cộng Sản được diễn giải theo quan điểm Đệ Tam Quốc Tế do Lênin thành lập và mang thêm màu sắc tư tưởng Lênin. Nói cách khác, chủ nghĩa Cộng Sản với tính cách chủ nghĩa Marx thuần túy du nhập Việt Nam trước đó đã được thay thế bằng chủ nghĩa Cộng Sản theo quan điểm Lênin với tên gọi chủ nghĩa Mác-Lê. Sự kiện này từng được Trần Văn Giàu nhấn mạnh trong tác phẩm Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam, qua lời phát biểu:“Tạ Thu Thâu chỉ là một phần tử Mác-xít, chứ không phải người Cộng Sản”.<br />Đệ Tam Quốc Tế được Lênin thành lập năm 1919 và một năm sau đó đã gây được ảnh hưởng tại Pháp với tác động đầu tiên là phân tán đảng Xã Hội Pháp thành hai phe. Cho tới thời điểm trên, đảng Xã Hội Pháp vẫn theo đường lối vận động cải cách xã hội của Đệ Nhị Quốc Tế và Hồ Chí Minh là một trong số 80 người Việt Nam gia nhập đảng này từ đầu năm 1919, sau hai năm định cư tại Pháp. <br />Trong đại hội thứ 18 của đảng Xã Hội Pháp vào tháng 12-1920 ở thành phố Tours, một số đảng viên tán thành quan điểm của Lênin phê phán Đệ Nhị Quốc Tế đi sai hướng chỉ đạo của Marx nên nêu vấn đề gia nhập Đệ Tam Quốc Tế. <br />Hồ Chí Minh lúc đó mang tên Nguyễn Ái Quốc có mặt tại đại hội này đã theo nhóm đảng viên Xã Hội ly khai, bỏ phiếu tán thành gia nhập Đệ Tam Quốc Tế. <br />Cuối năm 1921, nhóm đảng viên Xã Hội ly khai thành lập đảng Cộng Sản Pháp đặt mình trong phong trào Quốc Tế Cộng Sản dưới sự chỉ đạo của Đệ Tam Quốc Tế. Do sự việc này Hồ Chí Minh được kể là một trong số những đảng viên sáng lập đảng Cộng Sản Pháp. <br />Trên lý thuyết, chủ nghĩa Cộng Sản Mác-Lênin vẫn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản của Marx là phát động đấu tranh giai cấp bằng cách mạng bạo lực để tiêu diệt giai cấp tư bản, tiến tới thiết lập chuyên chính vô sản trên toàn thế giới. <br />Sự khác biệt chỉ nằm trong phương pháp hành động. Theo Marx, điều kiện để phát động đấu tranh giai cấp chỉ có tại các quốc gia công nghiệp phát triển, vì công nghiệp là nguyên nhân chủ yếu hình thành giai cấp vô sản. Công nghiệp càng phát triển, giai cấp vô sản càng đông đảo sẽ tạo thành lực lượng đấu tranh hùng mạnh. <br />Lênin theo đuổi đấu tranh giai cấp nhưng chủ trương không dựa riêng vào giai cấp vô sản mà dựa vào mọi tầng lớp quần chúng để gây lực lượng. Theo Lênin, cách mạng vô sản chỉ thành công khi có sự hỗ trợ của các giai cấp khác tức là cần tạm thời thỏa hiệp với mọi giai cấp để tạo ra những lực lượng liên minh trong đấu tranh. <br />Điều kiện thứ nhất để lôi cuốn đối tượng chấp nhận liên minh là nắm vững nguyện vọng của đối tượng. <br />Điều kiện thứ hai quan trọng hơn là phải luôn giữ quyền chủ động trong liên minh để duy trì tính đấu tranh liên tục trường kỳ dẫn tới mục tiêu cuối cùng là thiết lập chuyên chính vô sản. <br />Điều kiện thứ hai tương đối đơn giản vì thu gọn trong phạm vi kỹ thuật tổ chức và điều hành. Điều kiện thứ nhất phải bám theo thực tế nên vô cùng phức tạp vì diễn biến tình hình tại mỗi địa phương, mỗi thời điểm luôn luôn khác biệt. <br />Lênin đã tìm thế liên minh với giới nông dân để giành quyền lực tại Nga, nhưng cho rằng muốn giành quyền lực trên toàn thế giới, bắt buộc phải liên minh với phong trào đấu tranh chống thực dân tại các quốc gia bị trị. <br />Vì thế, Lênin mới nêu quan điểm chiến lược là muốn đi tới Paris phải qua Bắc Kinh. Quan điểm chiến lược này khiến khẩu hiệu do Marx và Engels nêu trong tuyên ngôn Cộng Sản thay đổi từ “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” biến thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.<br /> Theo Stalin nhắc lại, Lênin đã nói đi nói lại nhiều lần rằng thắng lợi của cách mạng thế giới sẽ không thể có, nếu không có liên minh cách mạng giữa vô sản của các nước tiên tiến với các dân tộc bị áp bức của các thuộc địa bị nô dịch. Cho nên, cùng với khẩu hiệu nêu trên, Lênin còn đưa ra bản luận cương về chủ nghĩa dân tộc và các vấn đề thuộc địa tương tự một hình thức tuyên ngôn về hành động của Đệ Tam Quốc Tế. Đây là những thứ đã thực sự lôi cuốn Hồ Chí Minh lúc đó và là bước mở đầu cho sự xâm nhập Việt Nam của chủ nghĩa Cộng Sản Mác – Lê.<br />Cho tới lúc đó, Hồ Chí Minh cũng như hầu hết người Việt Nam lưu vong vì mọi lý do đều không thể quên cảnh ngộ bị trị của dân tộc. Nhưng cũng như hầu hết những người Việt Nam đang sống lưu vong trên đất Pháp, Hồ Chí Minh chỉ là một phần tử xoay quanh Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường là hai nhân vật sáng lập và lãnh đạo Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước từ 1914 tại Pháp. <br />Khi nói về thời kỳ này của Hồ Chí Minh, Lacouture viết Hồ Chí Minh tập họp xung quanh mình những nhân vật nổi tiếng như Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh… Lacouture cố diễn tả Hồ Chí Minh như một nhân vật đấu tranh vượt trội so với mọi người nhưng dụng ý trên không gạt nổi người đọc, khi chính Lacouture đã ghi nhận Nguyễn Ái Quốc chỉ là một bút hiệu của Phan Chu Trinh và bản thỉnh nguyện thư 8 điểm ký tên Nguyễn Ái Quốc đệ trình tại Hội Nghị Hòa Bình Versailles ngày 18-6-1919 là do Phan Chu Trinh hướng dẫn và Phan Văn Trường soạn với sự góp phần của Hồ Chí Minh. <br />Lúc đó, Hồ Chí Minh với cái tên thực Nguyễn Tất Thành hoàn toàn là một kẻ vô danh giữa đám đông gần 90 ngàn người Việt Nam lưu vong tại Pháp. Rời Việt Nam năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã có 8 năm sống tại hải ngoại nhưng qua gần hết 6 năm lênh đênh theo những con tàu buôn với nhiều loại công việc mưu sinh. <br />Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành mới thực sự sống tại Pháp bằng nghề thợ ảnh và không hề tương quan với một phong trào chính trị nào. Cho nên, muốn dùng từ tập họp xung quanh như Lacouture và dùng chính xác thì chỉ có thể nói Nguyễn Tất Thành là một trong số những người Việt Nam lưu vong thường tập họp xung quanh Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. <br />So với những người khác, Nguyễn Tất Thành có hai lợi điểm là nghèo túng và tuổi trẻ đơn độc khiến Phan Văn Trường đã nẩy ý giúp đỡ cho về sống chung tại nhà và sau đó tham gia một số hoạt động của Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước. Đây là nguyên nhân khiến Nguyễn Tất Thành có tên Nguyễn Ái Quốc vốn là một bút hiệu của Phan Chu Trinh rồi trở thành tên chung cho nhóm người đấu tranh do hai nhân vật Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường chỉ đạo trực tiếp. <br />Có thể hình dung chàng trai Nguyễn Tất Thành được luật sư Phan Văn Trường giao cho đem những bài do Phan Chu Trinh hoặc Phan Văn Trường viết với bút hiệu Nguyễn Ái Quốc tới các tòa báo hoặc các nhóm người nào đó đồng thời dưới sự hướng dẫn của hai nhân vật này, chàng trai cũng bắt đầu viết một vài bài và được đồng ý cho ký tên Nguyễn Ái Quốc hoặc Nguyễn Le Patriote. Vì thế, khi gia nhập đảng Xã Hội Pháp vào đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành đã ghi tên là Nguyễn Ái Quốc. Bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc mà Cộng Sản Việt Nam coi như tài liệu lịch sử gây chấn động trong đời tranh đấu sôi nổi của Hồ Chí Minh là bản thỉnh nguyện thư 8 điểm bằng 3 ngôn ngữ Việt – Pháp – Hán gửi Hội Nghị Hòa Bình Versailles đã được Lacouture ghi là soạn chung với Phan văn Trường. Nguyên văn phần chính trong bản thỉnh nguyện thư 8 điểm bằng Việt ngữ mang tựa đề Việt Nam yêu cầu ca như sau: <br />………………………………..<br />Việt Nam xưa cũng oai thiêng<br />Mà nay đứng dưới thuộc quyền Lang Sa<br />Lòng thành tỏ nỗi sót sa<br />Dám xin đại quốc soi qua chút nào:<br />Một xin tha kẻ đồng bào<br />Vì chung chính trị mắc vào tù giam.<br />Hai xin pháp luật sửa sang<br />Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng<br />Những tòa đặc biệt bất công<br />Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.<br />Ba xin rộng phép học hành<br />Mở mang kỹ nghệ, tập tành công thương.<br />Bốn xin được phép hội hàng,<br />Năm xin nghĩ ngợi, nói bàn tự do,<br />Sáu xin được phép lịch du<br />Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.<br />Bảy xin hiến pháp ban hành<br />Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.<br />Tám xin được cử nghị viên<br />Qua Tây thay mặt gửi quyền thế dân.<br />Tám điều cạn tỏ xa gần,<br />Chứng nhờ Vạn Quốc công dân xét tình,<br />Riêng nhờ dân Pháp công bình,<br />Đem lòng đoái lại của mình trong tay.<br />Pháp dân nức tiếng xưa nay,<br />Đồng bào, bác ái sánh tầy không ai!<br />Nỡ nào ngoảnh mặt ngơ tai, <br />Để cho mấy ức triệu người bỏ cơ.<br />Dân Nam một dạ ước mơ,<br />Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự do.<br />Rộng xin dân Pháp xét cho,<br />Trong phò tiếng nước, sau phò lẽ công. (1)<br />……………………………………………<br />Thời điểm này, Nguyễn Tất Thành đã gia nhập đảng Xã Hội Pháp nhưng phương thức hành động và quan điểm đấu tranh phản ảnh qua tài liệu trên cho thấy chưa vượt khỏi chiếc bóng của Phan Chu Trinh và ý chí đấu tranh chưa vượt khỏi mức độ thông thường của bất kỳ người Việt Nam lưu vong nào lúc đó. Nhìn chung, chàng trai Nguyễn Tất Thành ở tuổi 28 hoặc 29 do gần gũi với những nhân vật đấu tranh yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường nên không thể không ưu tư về cuộc sống nô lệ của đồng bào và chia xẻ nguyện vọng giành độc lập với mọi người bằng hành động tham gia đảng Xã Hội Pháp là một tổ chức chính trị thường phản đối các chính sách thực dân đối với các quốc gia thuộc địa.<br />Trong tình cảnh đó, sự thắng lợi của cách mạng vô sản Nga và lời kêu gọi của Lênin đề cao cuộc liên minh giữa giai cấp vô sản với dân chúng các quốc gia bị trị trên toàn thế giới thành một lực lượng đấu tranh xô đổ ách thực dân thống trị đã có hấp lực đặc biệt như chính Hồ Chí Minh từng diễn tả. <br />Hồ Chí Minh đã hoan hỉ tiếp nhận cương lĩnh này như kẻ sắp chết đuối vớ được chiếc phao đến nỗi đang ngồi một mình trong phòng riêng cũng hô lớn lên một cách vui mừng – như chính ông đã ghi lại. Khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” trở thành ánh sáng mới mở ra một hướng đường cho nỗ lực đấu tranh giải phóng dân tộc trước mắt Hồ Chí Minh. <br />Vấn đề giải phóng dân tộc luôn là mối quan tâm của mọi người Việt lưu vong tại Pháp lúc đó và là mối quan tâm hết sức lớn với những người đấu tranh như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường…<br />Chàng trai Nguyễn Tất Thành sống gần gũi và còn có dịp chia xẻ công việc với hai nhân vật này nên chắc chắn phải nghĩ đến giải phóng dân tộc.<br />Cho nên, có thể cho rằng Nguyễn Tất Thành đã thành thực khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rose về lý do tán thành gia nhập Đệ Tam Quốc Tế: “…Tôi không hiểu thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản…Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Đệ Tam Quốc Tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng dân tộc”<br />Trong Danh Nhân Hồ Chí Minh, Trần Đình Huỳnh đã ghi lại sự kiện này như sau: “Đây có thể coi là cái mốc quan trọng đầu tiên phản ảnh sự chuyển biến cả trong tư tưởng lẫn hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội khoa học… Sau đó Người đã viết thư bằng tiếng Pháp gửi Quốc Tế Cộng Sản cho biết Luận Cương này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan của Người và giúp Người dứt khoát đi theo Quốc Tế III”. (2) <br />Một số tác giả như Bernard Fall, Halberstam đều ghi nhận bước ngoặt quan trọng nhất trong đời Hồ Chí Minh đã mở ra từ bản luận cương của Lênin. <br />Trên thực tế, bản luận cương không chỉ chuyển biến tinh thần quốc gia sang tinh thần quốc tế hình thành thế giới quan chính trị mới của Hồ Chí Minh mà đã đưa lại cho Hồ Chí Minh cơ hội hóa thân từ một chàng trai vô danh thành một nhân vật đấu tranh có tầm vóc. <br />Từ 1917 tới 1920, Hồ Chí Minh mới mon men bước vào đấu tranh với tư cách một phần tử nhỏ nhoi tham gia vài sự việc bình thường trong Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước của các lãnh tụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. <br />Năm 1921, Hồ Chí Minh trở thành đảng viên Cộng Sản Pháp và không lâu sau trở thành một nhân tố được lưu ý. Lý do quan trọng nhất của chuyển biến này chỉ đơn giản là Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ một quốc gia nông nghiệp đang sống dưới ách thực dân ở phương Đông. <br />Quan điểm chiến lược Lênin đặt nặng vai trò nông dân và vai trò các dân tộc bị trị Á Châu nên Hồ Chí Minh lập tức lọt tầm mắt xanh của các lãnh tụ Đệ Tam Quốc Tế. Năm 1923, Hồ Chí Minh trở thành một trong 52 ủy viên của Hội Đồng Quốc Tế Nông Dân, được bầu vào ban lãnh đạo gồm 11 ủy viên, được chọn vào trường Đại Học Cộng Sản Mạc Tư Khoa dành cho giới lao động phương Đông và ngày 14-4-1924 chính thức nhận quyết định bổ nhiệm làm cán bộ của Bộ Phương Đông, Đệ Tam Quốc Tế. (3)<br />Ngày 25-9-1924, Đệ Tam Quốc Tế cử Hồ Chí Minh đi công tác tại Quảng Châu, Trung Quốc với tư cách phụ tá cho Borodin. Theo Hồng Hà qua tác phẩm Bác Hồ trên đất nước Lê Nin, trang 135, thì “quyết định của Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản ngày 25-9-1924 trao tay cho anh Nguyễn Ái Quốc ghi rất vắn tắt: “Đồng Chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do ban Phương Đông chịu.” <br />Sách của Hồng Hà xuất bản năm 1980. 21 năm sau Trần Đình Huỳnh, trong cuốn Danh Nhân Hồ Chí Minh ghi thêm về nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh được giao phó gồm: <br />– Thiết lập quan hệ giữa các quốc gia tại Đông Dương và Quốc Tế Cộng Sản.<br />– Thông báo cho Quốc Tế Cộng Sản về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của các thuộc địa này.<br />– Bắt liên lạc với các tổ chức chính trị ở các xứ đó.<br />– Cố gắng tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền. (4)<br />Có lẽ sẽ còn nhiều chi tiết khác về nhiệm vụ của Hồ Chí Minh lúc ấy được bổ túc thêm. Nhưng có một điều chắc chắn là những nhiệm vụ thực sự quan trọng và các chi tiết về việc thi hành thường được trao qua khẩu lệnh – như Sophie Quinn-Judge đã ghi trong tác phẩm Ho Chi Minh, the missing years và như chính Hồng Hà đã viết: Nhiệm vụ đích thực của anh Nguyễn chỉ có vợ chồng đồng chí Borodin biết. <br />Thực ra, nhiệm vụ của Hồ Chí Minh lúc ấy không chỉ giới hạn ở Đông Dương mà là toàn vùng Đông Nam Á. Hồ Chí Minh nhận chỉ thị, báo cáo công tác và nhận ngân sách điều hành từ ban Phương Đông có trụ sở tại Thượng Hải, do Hilaire Noulens, bí danh của Jakov Rudnik điều khiển. Chính Hồ Chí Minh trong một cuộc gặp gỡ Manuilski, trước khi khởi hành đi Quảng Châu cũng đã xác nhận: “... Ngoài ra tôi còn chịu trách nhiệm trước Quốc Tế Nông Dân, và tham gia chỉ đạo phong trào nông dân Á Châu.” Ngay lúc đó Manuislki đã nói rõ: “Quốc Tế Cộng Sản cử đồng chí làm ủy viên ban Phương Đông phụ trách cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào cách mạng các nước Đông Nam Á Châu.” (5) <br /><br />Sophie Quinn-Judge, qua cuốn Ho Chi Minh, the missing years, dựa theo các tài liệu mới được giải mật tại Văn Khố Liên Bang Nga cho biết: “Tháng 8-1925, Quốc Tế Đông Phương đã gửi cho Hồ 5000 rúp (trị giá 2,500 MK vào lúc ấy) qua trương mục của Borodin trong ngân hàng Viễn Đông...” để thi hành 4 việc, trong đó có “(điều 4) cung cấp đều hòa cho Mạc Tư Khoa những tin tức và tài liệu về phong trào nông dân ở Trung Quốc.” (6) Nhiệm vụ của Hồ Chí Minh không hạn chế ở địa bàn Đông Dương mà còn mở rộng hơn theo diễn tả của Hồng Hà (7): “Ban Đông Phương Quốc Tế Cộng Sản giới thiệu anh với Trung Ương Quốc Dân Đảng Trung Quốc để làm việc ở đấy.... Anh Nguyễn sẽ ở đó với tư cách cá nhân, chứ không phải với tư cách là cán bộ của Quốc Tế Cộng Sản”. <br />Lúc ấy đang có sự liên minh giữa Liên Xô – Trung Hoa Dân Quốc theo sách lược “mặt trận thống nhất” của Lênin, nhưng Quốc Tế Cộng Sản không giới thiệu Hồ Chí Minh với tư cách cán bộ Cộng Sản hầu giấu kín âm mưu thao túng lũng đoạn để dễ hoạt động trong hàng ngũ người Quốc gia Trung Hoa cũng như Việt Nam. Chính vì thế, ngoài việc bí mật liên hệ với các tổ chức Quốc Tế Cộng Sản và đảng Cộng Sản Trung Hoa, Hồ Chí Minh còn được bà Tống Khánh Linh là phu nhân lãnh tụ Tôn Dật Tiên bao bọc, giúp đỡ và công việc lập những hạt nhân cho đảng cộng sản Việt Nam sau này đã tiến hành dễ dàng.<br />So với mấy năm trước, khi đặt chân tới Quảng Châu ngày 11-11-1924, Hồ Chí Minh đã trở thành một người hoàn toàn khác từ suy nghĩ đến khả năng và tư thế cá nhân. <br />Cho đến khi đã trở thành đảng viên Xã Hội Pháp, Hồ Chí Minh vẫn chỉ là một trong số nhiều chiếc bóng mờ giữa những người Việt Nam lưu vong tại Pháp. Nhà ở không có phải dựa vào luật sư Phan Văn Trường để được dành cho một căn phòng trong ngôi biệt thự số 6 đường Gobelins. Nghề nghiệp không có nên được Phan Chu Trinh cho giúp việc trong tiệm ảnh của mình để học nghề thợ ảnh. Khó khăn hơn nữa là trình độ hiểu biết Pháp ngữ. Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hồ Chí Minh dưới bút hiệu Trần Dân Tiên đã ghi về mình trong thời điểm đó như sau: “Ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng… Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết…Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn phải ký tên những bài báo.” (8) Đó là những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc ( đúng ra là Nguyễn Le Patriote) viết cho tờ Le Peuple của đảng Xã Hội Pháp và là những hoạt động đấu tranh tích cực nhất mà Hồ Chí Minh tham dự cho tới năm 1921.<br />Nói một cách khác, tới giữa năm 1921, Hồ Chí Minh chỉ là người được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường tin cậy giao cho vai trò giao dịch, được phép mang cái tên Nguyễn Ái Quốc gia nhập đảng Xã Hội Pháp để phát biểu quan điểm của người Việt Nam tại Pháp. <br />Tình trạng trên thay đổi vào tháng 7-1921 tức 7 tháng sau khi Hồ Chí Minh biểu quyết gia nhập Đệ Tam Quốc Tế. Suốt thời gian này, tại ngôi nhà số 6 Gobelins thường có tranh luận lớn tiếng giữa Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường với Hồ Chí Minh và ngày 14-7-1921, Hồ Chí Minh rời khỏi ngôi nhà. <br />Không ai biết nội dung những cuộc tranh luận nhưng có thể hiểu Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường không tán thành việc gia nhập Đệ Tam Quốc Tế. (9) <br />Hồ Chí Minh bỏ ngôi nhà số 6 đường Gobelins nhưng giữ tên Nguyễn Ái Quốc vốn là cái tên chung của một số người trong ngôi nhà đó từ trước khi Hồ Chí Minh tới. Tuy nhiên, cái tên này cũng như tâm tư của những con người đấu tranh trong ngôi nhà số 6 đường Gobelins không còn gắn bó với tư tưởng và tâm tư của Hồ Chí Minh nữa. <br />Kể từ tháng 7-1921, Hồ Chí Minh hoàn toàn gắn kết với chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày 29-12-1921, tại đại hội kỳ 1 của Đảng Cộng Sản Pháp, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “…Tôi vui sướng biết chừng nào khi được dự đại hội đầu tiên của những người Cộng Sản. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chủ nghĩa xã hội Pháp, một đồng chí người bản xứ thực sự tham gia vào công việc của Đại Hội. Tôi cũng phải nói đó là dấu hiệu tốt, bởi vì điều đó xác nhận rằng chỉ có trong chủ nghĩa Cộng Sản, người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó, chúng ta mới có thể thực hiện sự hòa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa”. (10) <br />Do đó, Hồ Chí Minh tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền phát triển đảng Cộng Sản Pháp và đầu năm 1923 đã ghi lại trong tờ truyền đơn cổ động cho báo Le Paria những dòng sau: “Chỉ có chủ nghĩa Cộng Sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc nguồn gốc, sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dày ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau. Tất cả mọi người hãy đứng lên quanh lá cờ đỏ để chinh phục thế giới. Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!” (11)<br />Không còn gì để ngờ vực về quan điểm chính trị mới của Hồ Chí Minh trong đó nguyện vọng độc lập dân tộc đã được thay thế bằng nguyện vọng chung sống hạnh phúc hòa bình trong nền cộng hòa thế giới của những người lao động chấp nhận đứng dưới lá cờ đỏ Cộng Sản. <br />Cho nên, trong bản báo cáo đầu tiên của Hồ Chí Minh ghi ngày 18-12-1924, sau một tháng có mặt tại Quảng Châu, đã có dòng cuối cùng nhấn mạnh: “Trong lúc này, tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người Việt Nam và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc”. (12) <br />Trong 4 công tác được giao phó, hai công tác cụ thể thuộc về vận động phát triển tổ chức là bắt liên lạc với các đoàn thể chính trị địa phương và tạo dựng một cơ sở thông tin, tuyên truyền. Hơn hai tuần lễ trước khi viết bản báo cáo, qua hướng dẫn và sắp đặt của phái bộ Borodin, Hồ Chí Minh đã bắt tay ngay vào việc thực hiện hai công tác trên bằng cách tìm tới nhà Nguyễn Công Viễn làm quen với một nhóm thanh niên trong tổ chức Tâm Tâm Xã của Phan Bội Châu. Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra vào một buổi tối đầu tháng 12-1924. Hồ Chí Minh tự xưng là Vương Sơn Nhị phóng viên của tờ Quảng Châu báo tới để tỏ lòng ngưỡng mộ những người cùng chí hướng với liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Trong câu chuyện, Hồ Chí Minh vẫn giữ tên Vương Sơn Nhị nhưng cho hai người bạn của Nguyễn Công Viễn cùng có mặt lúc đó là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu biết mình là người Nghệ An, đồng hương với họ.<br />Những cuộc tiếp xúc ngày càng nhiều. Và, càng ngày nhóm thanh niên Lê Hồng Sơn càng bị cuốn hút vào nội dung các vấn đề do ông Vương đặt ra. Chủ nghĩa cộng sản, cách mạng vô sản, tổ chức Đảng, quần chúng công nông vv… bắt đầu được các anh quan tâm tìm hiểu. Ông Vương chỉ cho các anh những sách báo cần đọc, giảng giải cho các anh rõ thêm những điều sách báo nói đến. Cứ như vậy, dần từng bước, với lòng khát khao hiểu biết cái mới, được sự dìu dắt của ông Vương, nhóm thanh niên Lê Hồng Sơn đã tìm được đường sáng. Nỗi băn khoăn của các anh về con đường và cách thức cứu nước đã được giải đáp. Đó là con đường cách mạng vô sản. Trước mắt, các anh cùng ông Vương lựa người tâm đắc, chỉ ra đường đi nước bước cho anh em để cùng chung sức lập ra tổ chức (13)<br />Kết quả, vừa đúng 2 tháng sau, ngày 19-2-1925, Hồ Chí Minh đã gửi báo cáo về Mạc Tư Khoa, báo tin vui cho Chủ Tịch Đoàn Đệ Tam Quốc Tế: “Chúng tôi đã lập được một nhóm bí mật gồm 9 hội viên. Trong đó, 2 người đã được phái về nước. Trong số hội viên đó, 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng Sản. Chúng tôi còn có 2 đoàn viên dự bị Đoàn thanh niên cộng sản Lênin” (14) <br />Nhóm bí mật 9 hội viên này gồm Hồ Chí Minh và 8 người thuộc Tâm Tâm Xã là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ tức Nguyễn Công Viễn, Vương Thúc Oánh, Lưu Quốc Long và Trương Vân Lĩnh. <br />Vương Thúc Oánh, Lưu Quốc Long, Trương Vân Lĩnh là những thanh niên hoạt động tại Thái Lan được Hồ Tùng Mậu tới thuyết phục chuyển về Quảng Châu. Nhóm này được gọi là “Cộng Sản Đoàn” và trở thành hạt nhân để tới tháng 6-1925 biến tổ chức Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội với một tổng bộ lãnh đạo do Hồ Chí Minh cầm đầu. Việc làm đầu tiên của tổ chức này là xuất bản tuần báo Thanh Niên, số ra mắt đề ngày 21-6-1925 tức trong thời gian xẩy ra biến cố Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt tại Thượng Hải. <br />Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí Hội xác định mục đích là “hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản)”. Bản điều lệ của Hội nêu chương trình hoạt động là “thành lập chính phủ nhân dân, áp dụng nguyên tắc tân kinh tế chính sách, đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, thành lập xã hội Cộng Sản”. (15)<br />Bên cạnh hình Tôn Dật Tiên, Phạm Hồng Thái lúc này xuất hiện thêm hình Karl Marx và Lênin tại trụ sở Hội. Một lớp huấn luyện chính trị đặc biệt được tổ chức thường trực để đào tạo cán bộ và mọi học viên đều thuộc lòng bản Quốc Tế Ca được Hồ Chí Minh dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát như sau:<br />Hỡi ai nô lệ trên đời<br />Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên<br />Bất bình này, chịu sao yên<br />Phá cho tan nát một phen cho rồi<br />Bao nhiêu áp bức trên đời<br />Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha<br />Cuộc đời nay đã đổi ra<br />Ta xưa con ở, nay là chủ ông<br />Trận này là trận cuối cùng<br />Ầm ầm Đoàn lực, đùng đùng Đảng cơ<br />Lanh-te-rô-na-xi-on-na-lơ<br />Ấy là nhân đạo, ấy là tự do. (16)<br />Đồng thời với việc củng cố tăng cường cơ sở tại Quảng Châu, Hội bắt đầu cử người về nước và đi Thái Lan tuyên truyền thu hút thanh niên qua tham gia các lớp huấn luyện chính trị để trở về hoạt động quảng bá tư tưởng Cộng Sản. Trong năm 1926, Lê Duy Điếm được cử về Nghệ An đã thu phục được nhóm Phục Việt của Trần Phú, Tôn Quang Phiệt đồng ý gia nhập Hội và cử người đi Quảng Châu dự các lớp huấn luyện. <br />Kết quả tương tự cũng gặt hái được với Lê Hữu Lập được cử về vận động các nhóm học sinh trung học tại Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, và với Hồ Tùng Mậu được cử đi vận động Việt kiều tại Đông Bắc Thái Lan …<br />Con đường xâm nhập Việt Nam của chủ nghĩa Cộng Sản kể từ sau 1926 không còn qua sách báo từ Pháp mà trực tiếp với những cán bộ tuyên truyền từ Quảng Châu, Thái Lan. <br />Chủ nghĩa Cộng Sản được truyền bá lúc này là chủ nghĩa Mác-Lênin tức chủ nghĩa Cộng Sản cộng với phương thức đấu tranh Lênin vì điều lệ Đệ Tam Quốc Tế đã qui định chỉ được coi là người Cộng Sản khi vừa tin theo Marx vừa tán thành đường lối Lênin. <br />Trên căn bản này, từ năm1926, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo xỉ vả nhóm Đệ Nhị Quốc Tế là tổ chức tiểu tư sản gồm những tên xã hội chủ nghĩa gian xảo, làm lợi khí cho bọn bóc lột và lừa đảo và từ sau 1930 đã không ngừng kết án nhóm Đệ Tứ Quốc Tế là bọn chó săn, tay sai Phát Xít cần phải tiêu diệt.<br />Quan điểm bạn và thù với chính những người cùng chung tư tưởng Cộng Sản đã được xác định như thế nên không thể có sự dễ dàng chấp nhận những người theo đuổi tư tưởng quốc gia dân tộc. <br />Tuy nhiên, trọng tâm quan điểm chiến lược Lênin là hiệu quả của sự liên minh với các thành phần tùy theo giai đoạn nên mọi hoạt động tuyên truyền đều khoác những chiêu bài thích nghi với thực tế của từng thời điểm, từng địa phương và việc xâm nhập các đoàn thể khác để chi phối lũng đoạn là việc cần thiết. Xâm nhập là cơ hội bớt thù thêm bạn, vì có thể đạt điều kiện biến các đoàn thể đó thành tổ chức của chính mình. <br />Hồ Chí Minh đã hoàn tất việc này khi xâm nhập nhóm Tâm Tâm Xã vốn là một tổ chức do những người theo Phan Bội Châu thành lập năm 1923 với mục tiêu giải phóng đất nước. <br />Hồ Chí Minh khởi sự làm quen với nhóm Tâm Tâm Xã vào tháng 12-1924, tới tháng 6-1925 đã lôi cuốn những thành viên chủ chốt đồng ý biến nhóm thành Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đặt dưới sự điều động của Hồ Chí Minh. <br />Tuy nắm tổ chức này trong tay, Hồ Chí Minh chỉ cho bày thêm tại trụ sở Hội 2 tấm hình Marx, Lênin bên cạnh hình Tôn Trung Sơn, Phạm Hồng Thái là những biểu tượng đấu tranh của Tâm Tâm Xã và vẫn luôn cổ võ lòng yêu nước. Vì luận cương chính trị Lênin đã phân tích rõ nguyện vọng tha thiết nhất của quần chúng tại các thuộc địa chỉ là lật đổ ách thực dân, giành lại độc lập nên phải đặt chủ nghĩa dân tộc trong khuôn khổ đấu tranh giai cấp như một võ khí vận động quần chúng tham gia cách mạng vô sản toàn thế giới. Tất nhiên, khi thành công trong việc giành quyền chính để tiến tới thiết lập chế độ vô sản thì chủ nghĩa dân tộc sẽ không còn lý do tồn tại, nhưng đây là điều không thể công khai tuyên bố và cũng không cần thiết công bố khi chưa giành được quyền chính.<br />Chính vì thế, trong lúc hết lời công kích các nhóm Đệ Nhị, Đệ Tứ Quốc Tế, Hồ Chí Minh đã không ngừng đề cao lòng yêu nước và tinh thần cách mạng dân tộc. <br />Động cơ của nỗ lực này không khởi từ sự theo đuổi nguyện vọng yêu nước của dân tộc mà khởi từ yêu cầu phát triển ảnh hưởng Đệ Tam Quốc Tế để tiến tới tranh thủ mục tiêu cuối cùng là tiêu diệt chế độ Tư Bản giành quyền chuyên chính trên toàn thế giới cho giai cấp Vô Sản đại diện bởi tổ chức Đệ Tam Quốc Tế, cụ thể là chính quyền Liên Xô. <br />Nói một cách khác, chủ nghĩa Cộng Sản Mác-Lênin từ sau 1925 đã xâm nhập Việt Nam qua trung gian của nhiều phong trào tổ chức đấu tranh yêu nước và đây là một trong những lý do khiến không ít người nghiên cứu về vấn đề Việt Nam đã đồng hóa Cộng Sản Việt Nam với các lực lượng đấu tranh yêu nước. <br />Cái hạt nhân đỏ mà Hồ Chí Minh gieo vào Đông Dương là Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội từ 1926 đến 1929 đã nẩy mầm bén rễ thành nhiều tổ chức như các Hội Việt Kiều Thân Ái tại một số địa phương Thái Lan, Tân Việt Cách Mạng Đảng tại Huế, Đông Dương Cộng Sản Đảng tại Hà Nội rồi An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn tại mấy tỉnh miền Bắc Trung Phần… tạo thành một tình trạng theo Đặng Hòa là rất khẩn trương. Đặng Hòa đã diễn tả: “Năm 1929 quá trình hình thành các nhóm cộng sản đang diễn ra rất khẩn trương. Mấy năm qua, hoạt động của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đã phổ biến ngày càng rộng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác–Lênin trong quần chúng yêu nước, phong trào công nhân phát triển mạnh, ý thức giác ngộ chính trị của công nhân ngày càng cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã xuất hiện ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Mỗi nhóm đều có ý muốn tổ chức của mình là Đảng Cộng Sản duy nhất ở trong nước. Quan hệ giữa các nhóm với nhau không bình thường”. (17)<br />Lúc này Hồ Chí Minh đang có mặt tại Thái Lan sau khi theo phái bộ Borodin rời Trung Quốc năm 1927 trở về Nga qua công tác tại Pháp – Đức. <br />Tháng 7-1928, Hồ Chí Minh tới Thái Lan và tháng 12-1929 được lệnh của Đệ Tam Quốc Tế xuống tàu trở lại Trung Quốc lo hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Việt Nam. <br />Ngày 3-2-1930, tại Hong Kong, các đại diện Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng đồng ý hợp nhất thành Đảng Cộng Sản Việt Nam trước sự chứng kiến của Hồ Chí Minh với tư cách đại diện Đệ Tam Quốc Tế. <br />Kể từ đây, tại Việt Nam bắt đầu hiện diện một tổ chức Cộng Sản thực sự nắm quyền chỉ đạo hoạt động của mọi nhóm cộng sản địa phương. Tổ chức mang tên Đảng Cộng Sản Việt Nam vào lúc thành lập tới tháng 10-1930 đổi tên thành Đảng Cộng Sản Đông Dương theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế và được nhìn nhận là một chi bộ độc lập của Đệ Tam Quốc Tế theo nghị quyết ghi ngày 11-4-1931 nguyên văn như sau:“Đảng Cộng Sản Đông Dương trước đây là một chi bộ của Đảng Cộng Sản Pháp, từ nay được công nhận là một chi bộ độc lập thuộc Quốc Tế Cộng Sản”. <br />Nghị quyết này đặt Cộng Sản Việt Nam vào vị thế cao hơn trong hệ thống Quốc Tế Cộng Sản đồng thời cũng là vị thế bị chi phối trực tiếp chặt chẽ hơn bởi Đệ Tam Quốc Tế. <br />Trong tình thế mới mẻ này, những hoạt động phản đối như mít tinh, bãi công lẻ tẻ tại vài nơi trong nước vào thời điểm 1928-1929 đã được nhìn lại để biến thành phong trào quy mô hơn là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh thúc đẩy một loạt các cuộc nổi dậy tại nhiều xã ở Nghệ An trong tháng 9-1930, tại Phổ Đức, Quảng Ngãi và Tiền Hải, Thái Bình tháng 10-1930 …<br />Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, Trần Trọng Kim đã ghi lại tổng quát về 20 năm chủ nghĩa Cộng Sản xâm nhập Việt Nam, từ 1925 tới 1945, như sau: “Nguyên từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có người nói đến chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy có một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi lễ, quê làng Kim Liên huyện Nam Đàn thuộc tỉnh Nghệ An. Trước học trường trung học ở Huế rồi bỏ sang Pháp theo Xã Hội Đảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau lại sang Nga vào đảng Cộng Sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong trào cộng sản cách mệnh ở vùng Nghệ Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy phải im hơi lặng tiếng, nhưng vẫn ngấm ngầm tuyên truyền trong đám dân gian và thợ thuyền, theo đúng phương pháp đã định ở Mạc Tư Khoa bên Nga …<br />Bọn ông Hồ Chí Minh… lợi dụng danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để che đậy công việc làm…Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.<br />Cách hành động của họ thì bất cứ công sở hay tư sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Đảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh.<br /> Sự tổ chức của đảng cộng sản đã mạnh và nhất là từ khi quân Nhật Bản vào đóng ở Đông Dương, rồi xem hình như người Pháp lại ngấm ngầm dung túng họ, có ý để họ quấy nhiễu quân Nhật may ra có xảy biến đổi gì chăng. Cho nên người ta thấy lúc ấy chính phủ bảo hộ vẫn bắt bớ những người làm thuyền thợ theo cộng sản, song người cộng sản nào có chút thế lực thì bắt rồi lại thả ra, hoặc dùng để làm việc với mình…<br />Trong khi ấy ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu vẫn cộng tác với Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, không có tranh dành địa vị như những người khác, cứ làm việc của một đảng viên có kỷ luật. Cái khôn khéo của ông lúc ấy không để lộ cho ai biết ông là lãnh tụ đảng cộng sản Đông Dương …<br /> Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội lại dời về tỉnh Quảng Tây và cho ông Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó hội cho ông Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Đỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản. <br />… Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng hai năm 1945. Từ đó bọn ông Hồ Chí Minh bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội mà dùng danh hiệu cũ là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng của cộng sản.” <br />Nhìn chung, chủ nghĩa Cộng Sản ban đầu xâm nhập Việt Nam qua sách báo Pháp – Hoa với tác động của một học thuyết xã hội đối với giới trí thức nhưng chỉ mấy năm sau đã đổi thành chủ nghĩa Mác– Lênin xâm nhập qua hoạt động tuyên truyền của một cán bộ Đệ Tam Quốc Tế là Hồ Chí Minh mượn tay nhiều tổ chức và các phần tử quốc gia yêu nước để truyền bá tới mọi tầng lớp quần chúng trên khắp nước.<br />Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đem về cho Việt Nam những thành quả nào? <br />Đã có không ít lời giải đáp cho câu hỏi trên theo nhiều lối nhìn khác nhau. <br />Chủ điểm của chương sách này không nhắm tìm thêm một lời giải đáp mà chỉ nhìn lại những đoạn đường xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản cùng những người đã đưa chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam. Hiển nhiên, Hồ Chí Minh chỉ là một người đi sau nhiều người khác trong công việc này. Nhưng cũng hiển nhiên, Hồ Chí Minh là người duy nhất thành công trong việc nhuộm đỏ toàn bộ đất nước Việt Nam nhờ đức tin tuyệt đối ở chủ nghĩa Mác – Lênin cộng với nhiệt tình phụng sự Đệ Tam Quốc Tế, sự trung thành với quan điểm chiến lược sách lược Lênin và khả năng vận dụng linh hoạt mọi yếu tố thực tế trong nhiều thời kỳ khác nhau.<br /> <br />CHÚ THÍCH<br />CHƯƠNG 44<br />___________________________<br />(01) Bác Hồ, những năm tháng ở nước ngoài – Đặng Hòa, Trung Tâm UNESCO bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc VIỆT NAM, Hà Nội 2001, tr.37-38. Nguyên văn bản thỉnh nguyện ngoài đoạn trích dẫn trên còn 6 câu mở đầu và 18 câu kết. <br />(02) Trong tác phẩm Ho Chi Minh The missing years, bà Quinn-Judge, có lẽ vì không tìm thấy văn kiện nào bằng Nga ngữ trong văn khố liên bang Nga, nên quả quyết Hồ Chí Minh không được QTCS trọng dụng, và còn bị ngược đãi. Nhưng việc Hồ Chí Minh được cử vào ban Phương Đông thuộc QTCS là đích xác, vì trong cuốn Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin, nơi các trang 62 và 106, Hồng Hà đã trưng văn kiện chính thức của ban chấp hành QTCS ghi rõ ngày 14-4-1924 chứng nhận: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Ban Phương Đông QTCS”, mang chữ ký của “tổng thư ký ban Phương Đông thuộc ban chấp hành Quốc Tế Cộng Sản, PÊ-TƠ-RỐP”, và ở một chỗ khác còn ghi thêm: “với khoản tiền trợ cấp hàng tháng là 6 tréc-vô-nhét, tương đương với 60 rúp.” <br />(03) Danh Nhân HCM – Trần Đình Huỳnh, Nxb VănHọc, HàNội 2001, tr. 14-15.<br />(04) Các chi tiết về giấy chứng nhận ký tên Pê-tơ-rốp, công tác tại Quảng Châu, phí khoản trợ cấp cho Hồ Chí Minh được ghi rõ trong Danh Nhân Hồ Chí Minh các trang 33, 35 và ghi rõ trong Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, Tập I, các trang 231, 237) <br />(05)-(07) Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin, Hồng Hà, tr. 133-134, 130<br />(06) Ho Chi Minh The missing years – Sophie Quinn-Judge, tr. 88<br />(08) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch – Nxb Văn Học, Hà Nội 2001, tr. 34-35<br />(09) Bác Hồ, những năm tháng ở nước ngoài – tr.51-53. Tác giả trích một đoạn thư ngày 18-2-1922 của Phan Chu Trinh từ Marseille gửi Hồ Chí Minh ở Paris, có câu:… tôi không thích cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” của anh…<br />(10)-(11) Danh Nhân Hồ Chí Minh – tr.21 & 27<br />(12) Biên niên tiểu sử – Tập I, tr.239.<br />(13)-(14)-(15)-(16)-(17) Bác Hồ, những năm ... tr.99-101, 102-107 & 115-116Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159069110076010882006-09-24T13:37:00.000+10:002006-09-24T13:38:30.316+10:00* Chương 45* HỒ CHÍ MINH và vụ bán Phan Bội Châu cho PhápTrong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, Phan Bội Châu (1867-1940) thường được nhắc đến như một chí sĩ, một nhà cách mạng nổi bật. Là một nhà nho ưu thời mẫn thế, Phan Bội Châu đã chọn cho mình con đường cứu nước, cứu dân mà kẻ sĩ xứng danh nào cũng không thể từ chối khi đất nước lâm nguy theo câu nói đã thành châm ngôn: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.<br />Mới 17 tuổi, Phan Bội Châu đã thảo hịch Bình Tây Thu Bắc và tích cực vận động thành lập Thí Sinh Quân để góp sức vào phong trào kháng Pháp đương thời. <br />Nhưng phong trào Cần Vương cũng như lực lượng triều đình Huế lúc đó không đủ sức đương cự với quân Pháp nên tất cả đều tan rã. Trong khi người Pháp tiếp tục tiến hành bình định để củng cố chính quyền thực dân, Phan Bội Châu không từ bỏ chí hướng đã có. Vừa dùng ngòi bút sáng tác thơ văn để nung nóng nhiệt tình cứu nước, ông vừa bôn ba tìm gặp các phần tử đấu tranh để gây dựng lực lượng chống Pháp. <br />Phan Bội Châu đã tiếp xúc với nhiều người từng chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương của Phan Đình Phùng, từng tới Yên Thế gặp Đề Thám, bàn tính việc đấu tranh với nhiều nhân vật trí thức yêu nước như Nguyễn Hàm, Đặng Thái Thân…và đặc biệt đưa ra chủ trương “giao kết giáo đồ” vận động tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đây là một chủ trương hết sức mới mẻ vì vào thuở đó vẫn có định kiến là tín đồ Thiên Chúa Giáo ủng hộ thực dân Pháp.<br />Phan Bội Châu cho rằng cuộc đấu tranh chỉ thành công khi đạt được sự hợp quần dân tộc và tin tưởng tuyệt đối ở lòng yêu nước của giáo dân. <br />Thực tế chứng minh Phan Bội Châu hoàn toàn nghĩ đúng vì sau đó phong trào nhận được sự đóng góp rất lớn của tín đồ Thiên Chúa giáo, gồm cả các vị linh mục ở nhiều giáo xứ như linh mục Thông xứ Mộ Vinh, linh mục Truyền xứ Mỹ Dụ, linh mục Thông xứ Quỳnh Lưu, Nghệ An và linh mục Ngọc xứ Ba Đồn, Quảng Bình… Phan Bội Châu đã ghi lại trong Phan Bội Châu niên biểu rằng “công ơn các người giáo dân phù giúp rất nhiều” và ghi lại một kết quả rất đáng kể của chủ trương là “các đám mây mù nghi ngờ giữa Lương Giáo, quét một trận sạch bong”. (1)<br /> Năm 1905, Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ xuất dương qua Trung Hoa rồi Nhật Bản, bắt đầu phát động phong trào Đông Du cứu nước. Trong số giáo đồ Thiên Chúa Giáo hưởng ứng phong trào có tu sĩ Mai Lão Bạng với biệt danh Già Châu đã đích thân đưa một nhóm thanh niên tới tận Hong Kong gặp Phan Bội Châu năm 1908 và sau đó trở thành cộng sự viên đắc lực của Phan Bội Châu. <br />Suốt 20 năm lưu vong ở Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Phan Bội Châu kết giao với nhiều nhân vật tên tuổi trong chính giới Trung Hoa, Nhật Bản như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên, bá tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu), tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki)… thành lập Việt Nam Quang Phục Hội cùng nhiều hội đoàn khác thúc đẩy, hỗ trợ các phong trào đấu tranh ở trong nước bằng sách báo tuyên truyền và giúp đỡ võ khí… (2) <br />Phan Bội Châu trở thành tiêu biểu của lòng yêu nước, động cơ kích động thu hút mọi người tham gia hoạt động lật đổ ách thực dân, trở thành kẻ đại quốc phạm đối với chính quyền bảo hộ Pháp nên đã bị kết án tử hình khiếm diện vào năm 1913 cùng với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nguyễn Hải Thần.<br />Sau khi Lênin cướp chính quyền thành công tại Nga, Phan Bội Châu đã nghĩ tới việc kết giao với người Nga để tìm thêm sự yểm trợ cho lực lượng đấu tranh Việt Nam. Trong Phan Bội Châu niên biểu (3), Phan Bội Châu khen Lênin có tài về chiến lược đấu tranh cách mạng nên có ý muốn gửi một số du học sinh nhờ Liên Xô giúp đỡ cho việc huấn luyện. Vì thế năm 1920, Phan Bội Châu đã đi Bắc Kinh gặp hai người Nga và ghi lại cuộc gặp gỡ đó như sau: <br />“Năm Canh Thân (1920), tháng 11, tôi nghe được người của Đảng Xã Hội Cộng Sản của nước Hồng Nga nhóm họp ở Bắc Kinh khá nhiều mà đại bản doanh của họ chính là nhà Bắc Kinh đại học. Tôi vì tính sẵn ham lạ mà nghiên cứu chân lý của đảng Cộng Sản…<br />Tôi đi Bắc Kinh… tới thăm Thái Nguyên Bồi tiên sinh… Thái mới giới thiệu tôi với hai người Nga, một người lao nông Nga La Tư du Hoa đoàn đoàn trưởng (tên chữ Nga tôi không nhớ được), một người là Hán văn tham tán Lạp tiên sinh là thuộc viên của đại sứ Gia-Lạp-Hãn. <br />Lần này là lần thứ nhất mà tôi trực tiếp kết giao với người Nga. Tôi có hỏi Lạp tiên sinh rằng: “Người nước tôi muốn đi du học quý quốc, nhờ tiên sinh chỉ vẽ đường lối cho”. <br />Lạp nói rằng: “Chính phủ Lao Nông đối với đồng bào thế giới ở nước Nga rất là hoan nghênh, người Việt Nam nay du học lại tiện lợi lắm. Do Bắc Kinh đến Hải Sâm Uy, đường thủy, đường bộ thông được cả. Do Hải Sâm Uy đến Xích Tháp có đường sắt vào Tây Bá Lợi Á, đi thấu được vào Mạc Tư Khoa, kể hành trình chỉ có 10 ngày thôi. Học sinh tới Nga tất trước phải đến Bắc Kinh, có đại sứ nước Lao Nông ở đó, vào xin lĩnh chứng thư và giấy giới thiệu. Được chứng thư của đại sứ thì từ Xích Tháp đến Mạc Tư Khoa, các tổn phí tiền xe và thực dụng thảy có chính phủ Lao Nông ưu đãi cho. Kể từ Việt Nam đến đất Nga, nhu phí chỉ trong 200 đồng chắc dễ biện lắm. Nhưng du học sinh trước khi vào học tất phải quyết tâm thừa nhận những điều kiện như dưới này:<br />1– Tín ngưỡng chủ nghĩa Cộng Sản.<br />2– Học thành rồi, về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông.<br />3– Học thành rồi, về trong nước mình phải ra sức làm những sự nghiệp cách mệnh.<br />Còn như phí tổn chi dụng trong khi tại học và khi về nước, nhất thiết do chính phủ Lao Nông đảm nhiệm.<br />Bấy nhiêu lời như trên là những lời mà lúc ấy tôi hội thoại với ông Lạp. Ông Hoàng Đình Tuân dùng tiếng Anh thông dịch cho tôi … Người Nga khi nói chuyện với tôi biểu hiện một cách hòa ái thành thực, tư sắc rành thấy là không đạm không nồng. Tôi còn nhớ một câu rằng: “Chúng tôi được thấy người Việt Nam là bắt đầu từ ông. Ông nếu dùng được chữ Anh làm một bản sách kể cho hết chân tướng người Pháp ở Việt Nam đem cho chúng tôi, chúng tôi cảm tạ mà không dám quên”. (4)<br />Sau lần tiếp xúc này, Phan Bội Châu trở về Quảng Châu không gặp gỡ người Nga nữa mà chỉ lo trung hưng Quang Phục Hội theo tình hình mới, nhất là sau khi xẩy ra vụ Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Merlin tại Sa Điện. <br />Phan Bội Châu gặp Tưởng Giới Thạch, Lý Tế Thâm đề nghị giúp đưa du học sinh Việt Nam vào trường Hoàng Phố và bàn với các đồng chí cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội đổi thành Việt Nam Quốc Dân Đảng dựa theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng. <br />Phan Bội Châu hoàn tất việc soạn thảo các văn kiện căn bản như đảng cương, chương trình vào tháng 9 năm Giáp Tý tức khoảng tháng 10-1924 giao cho Hồ Tùng Mậu đưa về trong nước lấy thêm ý kiến, rồi rời Quảng Châu về Hàng Châu. <br />Theo hồi ức Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu không rõ Hồ Tùng Mậu có chuyển tài liệu về nước không nhưng từ khoảng đầu năm 1925, Phan Bội Châu nhiều lần nhận được thư góp ý của Hồ Chí Minh. <br />Đây là thời gian Hồ Chí Minh báo cáo với Đệ Tam Quốc Tế về việc vừa lập xong nhóm bí mật Cộng Sản Đoàn với 8 người thuộc Tâm Tâm Xã trong đó có con rể Phan Bội Châu là Vương Thúc Oánh đang hoạt động ở Thái Lan được Hồ Tùng Mậu đích thân qua gặp đưa về Quảng Châu. <br />Hồ Chí Minh đang cùng nhóm này sắp xếp biến Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội vào tháng 6-1925 là thời gian mà người Việt Nam tranh đấu tại Trung Hoa dự trù tổ chức lễ tưởng niệm liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh ngày 19-6-1924 (tức ngày 15-5 Giáp Tý). <br />Sự có mặt của Phan Bội Châu trong dịp này là điều mong đợi của mọi người và cũng hoàn toàn hợp ý Phan Bội Châu đang muốn nhân dư vang tiếng bom Phạm Hồng Thái hun nóng nhiệt tình tranh đấu. Do đó, Phan Bội Châu rời Hàng Châu ghé Thượng Hải theo dự trù xuống thuyền tại đây về Quảng Châu.<br />Phan Bội Châu thuật lại: “Mười hai giờ đồng hồ chính trưa ngày 11 tháng 5 âm lịch (5) , xe lửa Hàng Châu đi đến Bắc trạm, tôi vì cớ nóng gởi bạc cho ông Trần nên gởi đồ hành lý ở nhà chứa đồ mà tay tôi xách một cái kha-băng nhỏ. Vừa ra cửa trạm thì thấy có một cái cỗ xe hơi, xe khá lịch sự, đứng xung quanh có 4 người Tây, tôi không nhận được ra người Pháp. Bởi vì xứ Thượng Hải người Tây nước nào cũng có, khách sang trọng biết chừng nào mà kể, đem xe hơi rước khách cũng là thông lệ của các lữ quán to. <br />Tôi có biết đâu chiếc xe hơi này là đồ gian của kẻ cướp bắt cóc người. Tôi mới ra khỏi cửa trạm vài ba bước thì thấy có một người Tây hung dữ lại trước mặt tôi dùng tiếng quan thoại mà nói với tôi rằng: <br />– Trứa cơ xe hấn hảo, xính xin xang xàng xe! – Xe này rất tốt, mời tiên sinh lên xe!<br />Tôi đương cự rằng: <br />– Ngộ bú giảo! – Tôi không cần!. <br />Thình lình người Tây nữa ở sau xe ra, hết sức đẩy tôi lên xe. Máy xe tức khắc vặn, tôi đã vào tô giới Pháp rồi. Xe chạy đến bờ bể thì binh thuyền nước Pháp đã chực sẵn. Tôi từ đó thành ra người tù phạm ở trong tàu binh”. (6) <br />Tin Phan Bội Châu bị bắt trở thành làn sóng thúc đẩy bùng nổ một phong trào đấu tranh lan rộng khắp các miền đất nước và ngay tại chính quốc Pháp. <br />Gần như mọi thành phần, mọi giới đều lên tiếng đòi tha Phan Bội Châu, xóa bỏ bản án tử hình khiếm diện năm 1913. Nhiều phần tử trí thức, sinh viên học sinh, đại diện các nghiệp đoàn… nối nhau gửi thư bênh vực Phan Bội Châu tới Hội Quốc Liên, tòa án quốc tế La Haye, Quốc Hội và chính phủ Pháp. Những nhân vật nổi tiếng thân Pháp như học giả Phạm Quỳnh cũng công khai yêu cầu ân xá cho Phan Bội Châu. <br />Dư luận sôi nổi kéo dài nhiều ngày trước và sau ngày 23-11-1925 là ngày khai diễn phiên tòa tại Hà Nội. Ngay giữa phòng xử luôn rộ lên những tiếng phản đối và đã có một người đứng ra xưng rõ họ tên quê quán là Nguyễn Khắc Doanh, người xã Trình Xuyên, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định đệ đơn xin Tòa cho được chết thay Phan Bội Châu. <br />Trong Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn đã ghi lại cảnh hàng trăm bà già buôn thúng bán bưng quỳ dọc theo phố hàng Đường, Hà Nội dâng thỉnh nguyện thư xin ân xá cho Phan Bội Châu vào lúc Toàn Quyền Alexandre Varenne vừa nhậm chức đi thị sát qua khu phố này. (7) <br />Đây là lần đầu chính quyền thuộc địa Pháp đứng trước một phong trào đấu tranh quyết liệt và có quy mô bao trùm toàn cõi Việt Nam. Kết quả, Tòa chỉ đưa ra một án tù treo và Toàn Quyền Varenne phải cử Khâm Sứ Trung Kỳ Pierre Pasquier đích thân tới phòng giam Hỏa Lò gặp Phan Bội Châu, sắp xếp việc đưa đi an trí tại Huế.<br />Phan Bội Châu bị bắt khiến hàng ngũ dân tộc yêu nước mất một điểm tựa mang tính chỉ đạo nhưng đã củng cố thêm niềm tin đặt vào các phong trào đấu tranh và hun nóng nhiệt tình của mọi giới ở trong nước.<br />Riêng Phan Bội Châu cho tới khoảng 1928-1929 khi ngồi viết Phan Bội Châu niên biểu vẫn không hiểu vì sao mật thám Pháp lại biết rõ hành trình của mình để chờ sẵn tại Bắc trạm Thượng Hải, ngoài một mối nghi ngờ: “Ai dè lúc tôi ra đi, thì cái thời giờ hành động của tôi đã có kẻ nhất nhất mật báo với người Pháp mà cái người mật báo đó lại chính là người ở chung với tôi, từng nhờ tôi nuôi nấng… Người ấy nghe nói tên là Nguyễn Thượng Huyền… gọi cụ Thượng Hiền bằng ông chú, thông chữ Hán, đã từng đậu cử nhân, chữ Pháp, chữ quốc ngữ cũng đủ xài. Tôi nhân yêu tài nó, lưu nó làm thư ký còn như nó làm ma cho Pháp thì tôi có nghĩ tới đâu!” (8)<br />Phan Bội Châu không cho biết đã được nghe ai nói Nguyễn Thượng Huyền làm ma (tức mật thám) cho Pháp và báo rõ hành trình của ông, tuy nhiên có vẻ tin theo. <br />Vào lúc Phan Bội Châu được nghe nói như thế thì tại Hà Nội, năm 1928, nhà xuất bản Nam Đồng Thư Xã cho phát hành tập tài liệu Ai bán đứng cụ Phan Bội Châu? của tác giả Nhượng Tống nêu đích danh người báo cho mật thám Pháp bắt Phan Bội Châu là nhóm Lý Thụy, Lâm Đức Thụ. Nhượng Tống phát giác sự việc trên dựa theo nhiều nguồn tin từ những người xung quanh Phan Bội Châu tại Trung Hoa. <br />Vào thời điểm đó, Lý Thụy cũng như Lâm Đức Thụ không phải những nhân vật tên tuổi trong hàng ngũ đấu tranh và cũng chưa tiêu biểu nổi cho một xu hướng chính trị rõ rệt nào ngoài tư cách người của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội vừa được thành hình. <br />Điều mọi người biết về Lâm Đức Thụ chỉ là còn có tên Trương Béo hoặc Hoàng Chấn Đông, tên thật là Nguyễn Công Viễn, từng tham gia Tâm Tâm Xã của Phan Bội Châu và có tương quan với tòa lãnh sự Pháp tại Hong Kong. <br />Như vậy, những nguồn tin mà Nhượng Tống nhận được chắc chắn không do dụng ý chống Cộng nhắm xuyên tạc về lãnh tụ Hồ Chí Minh như các tác giả Cộng Sản Việt Nam sau này nêu ra. Trên thực tế, cái tên Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện từ tháng 8-1945 và năm 1928 không ai biết Lý Thụy là Nguyễn Ái Quốc.<br />Hơn nữa, dù năm 1949 Nhượng Tống bị Cộng Sản ám sát tại Hà Nội, nhưng vào năm 1928, Nhượng Tống chưa hề đặt Cộng Sản vào thế thù địch. <br />Nhượng Tống bước vào làng báo năm 1924 chuyên hoạt động về văn hóa cho đến cuối tháng 12-1927 mới gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tập tài liệu Ai bán đứng cụ Phan Bội Châu? có thể được viết từ trước thời điểm này để ấn hành kịp vào năm 1928 và như thế Nhượng Tống không những chưa biết Lý Thụy là cán bộ Đệ Tam Quốc Tế mà thậm chí còn không biết Lý Thụy là ai nữa. Người ta đã biết tới cuối năm 1929, Việt Nam Quốc Dân Đảng còn cử người qua Thái Lan liên lạc với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đề nghị giúp đỡ võ khí để khởi nghĩa.<br />Thực ra, không chỉ riêng Nhượng Tống nhận được các tin tức cho biết Lý Thụy và Lâm Đức Thụ chủ mưu bán đứng Phan Bội Châu. Năm 1948, trên tạp chí Cải Tạo tại Hà Nội số tháng 10-1948 được Joseph Buttinger trích lại (9), Đào Trinh Nhất đã viết bài Một bí mật chưa ai nói ra nêu tên Hồ Chí Minh là kẻ chủ mưu bán đứng Phan Bội Châu cho mật thám Pháp. <br />Đặc biệt hơn, chính Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là người từng có Lâm Đức Thụ bên cạnh nhiều năm ở Trung Hoa cũng ghi lại sự việc này như sau: “Cuối tháng 5 năm 1925, Lâm Đức Thụ viết thư và gửi tiền lên Hàng Châu cho ông Phan Bội Châu, mời về Quảng Châu nhân dịp kỷ niệm Phạm Hồng Thái ngày 19 tháng 6, làm một cuộc tuyên truyền lừng lẫy cho cách mệnh Việt Nam. Ông Phan nhận được thư và tiền, liền đi Thượng Hải để đáp tàu thủy về Quảng Châu. Ông Phan đi rồi, mãi không thấy có thư từ gì về, bọn Hồ Học Lãm ở Hàng Châu lấy làm lạ, viết thư hỏi các đồng chí ở Quảng Châu. Thư trả lời nói không thấy ông Phan xuống đó, ai cũng lo.<br />Hơn một tháng sau, Lâm Chi Hạ, chủ nhiệm Quân Sự Biên Tập Xứ, tiếp được một phong thư từ Sán Đầu gửi tới, có kèm theo một mảnh thư do ông Phan viết, mới biết là ông bị bắt rồi. <br />Gửi thư ấy đến Lâm Chi Hạ là một học sinh Tàu. <br />Người này cho biết rằng nhân dịp nghỉ hè, từ Thượng Hải về Sán Đầu thăm nhà, gặp ông Phan ở trên tàu thủy, ông Phan thừa lúc người đi kèm không ở cạnh, nói chuyện với y và viết mảnh giấy ấy, nhờ y gửi đi Hàng Châu cho Lâm Chi Hạ. <br />Cứ như lời ông Phan nói trong mảnh giấy ấy thì khi ông đi xe lửa từ Hàng Châu đến Thượng Hải, vừa ra khỏi cửa ga, liền bị mấy người cảnh sát tô giới Anh núm lấy, điệu lên xe hơi đưa đến tô giới Pháp giao cho người Pháp. Ông bị giam ở đó ít lâu, rồi bị giải về nước bằng tàu thủy.<br />Lâm Đức Thụ ở Quảng Châu, lúc đầu cố phao vu cho người này người khác để che lấp tội ác của mình nhưng về sau thấy ông Phan bị bắt về đến trong nước, thành ra một cuộc tuyên truyền có hiệu lực cho cách mệnh, Lâm Đức Thụ mới khoe với mọi người đó là công hắn, vì chính hắn bắt ông Phan. <br />Hắn lại nói sở dĩ bắt ông Phan là vì hắn nghĩ ông đã trở nên già hủ, không thích hợp với thời đại mới nữa, ở ngoài bất quá biết làm mấy câu văn tuyên truyền hão bằng chữ Nho, chẳng được chuyện gì, không bằng đưa ông về nước lấy bản thân ra làm lợi khí tuyên truyền, lại có ích hơn” (10)<br />Những ý kiến mà Cường Để ghi là của Lâm Đức Thụ đã được Hoàng Văn Chí dựa theo tài liệu của nhạc phụ là Sở Cuồng Lê Dư xác nhận là ý kiến của Hồ Chí Minh. <br />Lúc đó, nhóm Lâm Đức Thụ rất tin theo Hồ Chí Minh và đang tính toán biến Tâm Tâm Xã thành tổ chức riêng. <br />Một vấn đề khiến cả nhóm ưu tư là có thể gặp trở ngại khi Phan Bội Châu không đồng ý, vì Phan Bội Châu đang tiến hành việc cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng. <br />Lê Dư theo Phan Bội Châu hoạt động trong Tâm Tâm Xã nhưng gần gũi với Lâm Đức Thụ. Vì thế, Lê Dư đã được nghe nhắc tới ý kiến của Hồ Chí Minh – lúc đó mang tên Lý Thụy và biệt danh Vương Sơn Nhị. Theo Lê Dư, Hồ Chí Minh đã nói: “Cụ đã gần đất xa trời mà chẳng nên công việc gì, chi bằng bán cụ cho Pháp lấy tiền cho Đảng ta”.<br />Một người trực tiếp nghe Hồ Chí Minh phát biểu như trên là Vương Thúc Oánh. Vương Thúc Oánh là người thứ 7 trong 9 hội viên bí mật của Cộng Sản Đoàn thành lập vào tháng 2-1925. Lúc đó, Vương Thúc Oánh rời Thái Lan theo Hồ Tùng Mậu về Quảng Châu và luôn có mặt trong mọi phiên họp bàn bạc về hoạt động của nhóm. <br />“Trong cuốn sách tự thuật in vào năm 1962, Vương Thúc Oánh cho biết trong phiên họp khoảng đầu năm 1925 của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, một hội vừa mới được Lý Thụy móc nối và thành lập, và Vương Thúc Oánh có hiện diện trong buổi họp đó, Lý Thụy nói: “Cụ Phan ái quốc thật, nhưng cụ đã quá già, đầu óc rất khó hấp thụ những trào lưu tư tưởng mới. Cụ lại quá thành thực, dễ tin người …” <br />Lý Thụy đã lý luận hãy để cho cụ Phan trở thành biểu tượng đấu tranh bằng cách để người Pháp bắt giam cụ Phan xong rồi Hội tổ chức các cuộc đấu tranh cho cụ. Song song, khi bán tin cho người Pháp bắt cụ, người Pháp phải gởi lại cho Hội một số tiền và Hội dùng số tiền này để phát triển lực lượng. Lý luận “nhất cử lưỡng tiện” này đã được các thành viên trong Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội biểu quyết chấp thuận”. (11)<br />Vương Thúc Oánh là con rể Phan Bội Châu cũng không thể phản đối và số tiền nhận được từ người Pháp trong vụ này, theo Vương Thúc Oánh, là 10 vạn quan, tức 100 ngàn quan.<br />Vụ “bán người” này được hầu hết các tác giả khác nhắc tới trong số có Đào Văn Hội, tác giả Ba nhà chí sĩ họ Phan, cho biết thêm một chi tiết khác: “Sau khi Phan Bội Châu đi Hàng Châu, Lý Thụy và Lâm Đức Thụ đã triệu tập các nhà cách mạng tại Quảng Châu lại, trừ Nguyễn Hải Thần, để bàn về vấn đề tài chánh. Không ai đưa ra được giải pháp nào về vấn đề này. Lâm Đức Thụ đã đề nghị hy sinh cụ Phan Bội Châu … Và hội nghị đã ủy cho Lâm Đức Thụ và Phan Vị đến tiếp xúc với tòa tổng lãnh sự Pháp ở Hương Cảng để thương lượng”. (12)<br />Về phía các tác giả ngoại quốc, David Halberstam và J. P. Honey là những người rất có thiện cảm với Hồ Chí Minh cũng xác nhận việc “bán người” trên. <br />Honey viết: “Việc Hồ Chí Minh bán đứng nhà ái quốc nổi tiếng Phan Bội Châu cho Pháp lúc ấy đang sống lưu vong ở Trung Hoa minh họa chân dung (cá tính) đích thực của con người đó (tức HCM). Sau này ông ta đã chứng minh cho đồng chí thấy việc làm đó là chính đáng bằng cách nêu lên 3 lý do thúc đẩy ông ta làm:<br />– Một, Phan Bội Châu không phải cộng sản mà là người “quốc gia” và có thể sẽ là đối địch với cộng sản trong kế hoạch kiểm soát phong trào kháng chiến chống Pháp. Phản Phan Bội Châu là loại bỏ được một đối thủ tương lai.<br />– Hai, món tiền thưởng nhận được của Pháp có thể được dùng một cách tối ưu để phát triển phong trào cộng sản Việt Nam.<br />– Ba, việc Pháp xử tử Phan Bội Châu sẽ tạo nên một không khí phẫn nộ mạnh trong nước lúc ấy đang cần có.<br />Biện luận kiểu đó chứng tỏ không còn nghi ngờ rằng Hồ cực đoan, tàn nhẫn và có óc tính toán.” (13) <br />Khác với J. P. Honey, David Halberstam không nhìn sự việc như một biểu hiện tính chất cực đoan, tàn nhẫn của con người Hồ Chí Minh mà đặt trên căn bản những cái lợi thu được cho hoạt động của Hồ Chí Minh: “Nhà ái quốc già Phan Bội Châu, bạn của thân phụ Hồ, lúc ấy đang ở Quảng Đông. Tại đây ông đã thu hút một số đông thanh niên Việt đang sống lưu vong. Còn Hồ Chí Minh thì nay là một chiến sĩ cách mạng chuyên nghiệp được rèn luyện tại Mạc Tư Khoa. Ông ta coi Châu chẳng có chút hy vọng nào và còn là một vấn đề trở ngại. Châu đối với Hồ chỉ còn là thứ di tích của quá khứ để tôn thờ. Xem ra Châu không phải một nhà cách mạng mà chỉ là một kẻ chống đối trong một địa phương hạn hẹp muốn có chút thay đổi. Đối với nhóm của Hồ, cụ Phan là con người chỉ biết an phận ngồi bàn chuyện đâu đâu trong khi thế giới đang biến chuyển và thời cuộc đang hối thúc phải hành động.<br />Một phụ tá của Hồ (14) bỗng nảy ra ý kiến có thể cho đoàn thể có một tài khoản lớn đồng thời làm phấn chấn lòng yêu nước trong nước. Anh ta đề nghị với Hồ nên hy sinh Châu cho đại nghĩa quốc gia. Lúc ấy Châu là lãnh tụ quốc gia nổi tiếng nhất tại Quảng Đông. Bán Châu cho Pháp, bọn họ sẽ được thưởng, trong khi đó, việc bắt giữ và xử án Châu sẽ dấy động lòng dân và kéo chú ý của quốc tế. Phản ứng của quốc tế sẽ rất mãnh liệt nên Pháp sẽ không thể xử tử Phan Bội Châu.<br />Ông Hồ đồng ý và vào tháng 6 năm 1925, Châu nhận được giấy mời dự buổi họp đặc biệt của những nhà cách mạng Việt Nam. Khi ông tới Thượng Hải thì bị mấy người lạ mặt bắt cóc đưa về sở của người Pháp rồi từ đó về Hà Nội. <br />Người ta tin rằng kẻ trung gian của Hồ đã nhận được 150 ngàn đồng của người Pháp trao cho. Châu bị xử khổ sai chung thân, nhưng mấy tuần sau được ân xá. Toàn quyền Pháp lúc ấy mời Châu đến tư dinh nghỉ đêm, nhưng vị ái quốc lão thành ngay cả lúc ấy cũng còn khước từ không chịu hợp tác với thực dân.<br /> Tuy nhiên, ông đã bị loại khỏi sân khấu chính trị, và tại QuảngĐông, Hồ Chí Minh nhanh chóng thâu dụng một số những thanh niên Việt lưu vong từng quây quần xung quanh Phan Bội Châu. Từ đó Hồ Chí Minh bắt đầu thành lập nhóm riêng của ông ta.” (15)<br /><br />Theo Halberstam, Hồ Chí Minh quyết định theo gợi ý của một phụ tá và số tiền nhận được là 150 ngàn. Đây là hai chi tiết tương đối dị biệt so với các tác giả khác. Ngoài ra, mọi chi tiết đều phù hợp, đặc biệt về lý do chủ yếu thúc đẩy hành động bán người là thanh toán trở ngại trên đường phát triển ảnh hưởng Cộng Sản. Halberstam ngưỡng mộ Hồ Chí Minh như một thần tượng nên không thể có dụng ý xuyên tạc để bôi xấu thần tượng. Ngược lại, Halberstam còn coi hành động này phản ảnh tài trí hơn người của Hồ Chí Minh vì vừa loại trừ được một trở ngại vừa có thêm tài chính, có thêm điều kiện nhân tâm thuận lợi và có động cơ cụ thể thúc đẩy việc đấu tranh. <br />Tuy nhiên có thể chính Halberstam vẫn không tin lý lẽ của mình đủ thuyết phục mọi người nhìn sự việc theo hướng đã mở, vì nhiệt tình yêu nước của Phan Bội Châu và cái án tử hình khiếm diện đã có từ 1913. Bởi lẽ, bất kỳ lý do nào cũng không cho phép đặt một người nhiệt tình yêu nước dưới máy chém của kẻ thù. <br />Cho nên, Halberstam đã nhấn mạnh về tuổi già vô dụng của Phan Bội Châu và sự tin tưởng Pháp không dám ra tay sát hại ông. Gần như Halberstam chỉ lập lại những biện bạch do chính Hồ Chí Minh (hoặc một phụ tá) nêu ra trong các buổi họp cho rằng Phan Bội Châu già yếu không còn thích hợp với việc đấu tranh và cho rằng người Pháp không dám xử tử Phan Bội Châu.<br /> Lúc đó Phan Bội Châu mới 58 tuổi và là nhân vật nổi bật đối với cả quần chúng trong nước lẫn chính giới Nhật Bản – Trung Hoa nên biện bạch trên không phản ảnh thực tế mà chỉ xuất phát từ dụng tâm cố tình triệt hạ. <br />Về sự tin tưởng người Pháp không dám xử tử Phan Bội Châu thì có thể coi như cách trấn an để ai còn nghi ngại sẽ xuôi theo chứ không dựa trên cơ sở nào. <br />Thực ra, theo các tác giả khác, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề hy sinh Phan Bội Châu để tạo một biểu tượng đấu tranh và đã nói hành vi xử tử Phan Bội Châu sẽ gây căm phẫn trong quần chúng tức là không che giấu ý định đẩy Phan Bội Châu vào cái chết để khai thác. <br />Dù nhìn sự việc theo cách nào, việc Phan Bội Châu rơi vào tay mật thám Pháp đã đem lại cho Hồ Chí Minh nhiều lợi điểm trong bước đầu phát triển ảnh hưởng. <br />Trước hết là cảnh huống đột ngột mất ngọn đuốc chỉ đạo của những người đang hoạt động chống Pháp tại Trung Hoa – Thái Lan, vì hầu hết những người này đều hưởng ứng phong trào Đông Du hoặc hưởng ứng các hội đoàn chịu ảnh hưởng Phan Bội Châu. Mất Phan Bội Châu, tất cả trở thành mất phương hướng nên dễ dàng ngả theo tuyên truyền Cộng Sản hoặc dễ dàng liên kết với Cộng Sản để sẽ trở thành công cụ. Chứng cớ cụ thể là ngay những người từng có nhiều năm tranh đấu như Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần… cũng trở thành con cờ bị vận dụng từ thập niên 1930.<br />Kế tiếp, sự vắng mặt của Phan Bội Châu đã mở ra khung cửa lớn cho những nỗ lực tiếp cận với chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Cánh cửa đó từ trước gần như bị che khuất bởi uy danh Phan Bội Châu thì lúc này luôn bỏ ngỏ cho bất kỳ kẻ nào khôn khéo. Hồ Chí Minh có lợi thế hơn bất kỳ ai hết vì có Quốc Tế Cộng Sản yểm trợ sau lưng trong lúc chính quyền Trung Hoa đang thi hành chính sách Liên Nga Dung Cộng. Tình hình này giúp Hồ Chí Minh dễ dàng tranh thủ sự ủng hộ của nhiều nhân vật chính quyền Trung Hoa, thậm chí nhận được cả sự ủng hộ của phu nhân lãnh tụ Tôn Dật Tiên, bà Tống Khánh Linh, <br />Thuận lợi hơn nữa là khung cảnh đấu tranh gần như hoàn toàn mới ở trong nước, nhất là quyết định thủ tiêu Việt Nam Quang Phục Hội do chính Phan Bội Châu đưa ra chưa kịp có bước tiếp nối. <br />Biến cố Phan Bội Châu bị bắt khiến nhiều tầng lớp quần chúng thức tỉnh, đồng thời khó tránh gây hoang mang cho các hội đoàn đấu tranh dưới ảnh hưởng của Phan Bội Châu đang chưa biết tiến lui ra sao. Có thể hình dung địa bàn quốc nội gần như bỏ ngỏ cho những ai đã có định hướng khai thác. <br />Điều này đã giải thích về sự phát triển tương đối mau chóng của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội là tổ chức do một Tổng Bộ lãnh đạo gồm người Cộng Sản nhưng vẫn tuyên truyền đường lối Tam Dân Chủ Nghĩa, vẫn trưng hình Tôn Dật Tiên, Phạm Hồng Thái và nhất là vẫn không rời danh nghĩa Phan Bội Châu.<br />Thuận lợi đáng kể hơn hết đối với bản thân Hồ Chí Minh là dẹp xong một trở ngại lớn. Từ tháng 6-1923, Hồ Chí Minh đã có mặt tại Liên Xô, được chọn là ủy viên Quốc Tế Nông Dân, được huấn luyện tại Đại Học Cộng Sản Mạc Tư Khoa, được kết nạp vào Đệ Tam Quốc Tế công tác tại Cục Phương Đông và nhất là đặt trọn niềm tin vào lãnh tụ Lênin như đã viết trên báo Pravda ngày 27-1-1924: “Khi còn sống, Người là cha, là thầy, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội. Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. (16) <br />Với niềm tin này, Hồ Chí Minh nhìn thấy Phan Bội Châu vốn nhiệt thành yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc chắc chắn không bao giờ tôn thờ Lênin. Như thế, dù muốn dù không, Phan Bội Châu đã trở thành kẻ đại địch, nhất là với vị thế và uy tín mà Phan Bội Châu đang có. <br />Nhiệm vụ của Hồ Chí Minh tại Cục Phương Đông sẽ hết sức nặng nề trong trường hợp Phan Bội Châu tiếp tục tồn tại để lãnh đạo các phần tử đấu tranh. Trong quan điểm chiến lược sách lược do Lênin vạch ra, vấn đề liên minh là trọng yếu nhưng chỉ có thể liên minh trong tư thế nắm vững quyền chỉ đạo. Phương sách đối phó duy nhất trong trường hợp gặp những kẻ cản trở thế liên minh này là loại trừ. Việc Phan Bội Châu bị vĩnh viễn loại khỏi chính trường hoàn toàn phù hợp với quan điểm chiến lược sách lược mà Lênin đã vạch ra.<br />Tuy vậy, vẫn có những tác giả tránh né đề cập hoặc bác bỏ việc Hồ Chí Minh bán đứng Phan Bội Châu. <br />Trước hết, hết thẩy các tác giả Cộng Sản Việt Nam đều không bao giờ nhắc đến việc này. Một câu viết gần như trở thành khuôn đối với các tác giả này là gán cho người nhắc đến vấn đề những từ xuyên tạc, vu cáo và cũng không nói rõ xuyên tạc, vu cáo điều gì. Chẳng hạn, trong Phan Bội Châu niên biểu, nơi bài mở đầu, Chương Thâu viết: “Về nguyên văn chữ Hán, Phan Bội Châu niên biểu có khá nhiều bản, trong số này, may mắn còn bảo tồn được hai bản gốc có thủ bút của cụ Phan (bản của Huỳnh Thúc Kháng và bản của Anh Minh)… Ông Nguyễn Văn Xuân … đã chỉ trích sai lầm đối với giới học thuật miền Nam lúc đó là vì sao lại không tin, không dựa vào Anh Minh? Theo chúng tôi, sở dĩ người ta không thể tin Anh Minh vì chính Anh Minh đã có nhiều việc làm khuất tất, mờ ám, nhất là y đã cố tình xuyên tạc tài liệu Phan Bội Châu để nhắm mục đích chống Cộng một cách khá lộ liễu” (17). <br />Cũng trong Phan Bội Châu niên biểu, đoạn Phan Bội Châu nhắc đến việc giao dịch với Hồ Chí Minh, Chương Thâu đã nhấn mạnh mấy chữ “ông đã nhiều lần viết giấy cho tôi” và ghi thêm trong chú thích như sau: Ở đây ta chú ý là: đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trao đổi với cụ Phan bằng thư từ chứ không phải trực tiếp bàn bạc, vì khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu thì cụ Phan đã đi Hàng Châu từ trên dưới một tháng rồi. (18) <br />Có thể Phan Bội Châu không gặp Hồ Chí Minh tại Quảng Đông, nhưng ở đây dụng ý của Chương Thâu chỉ muốn đẩy xa Hồ Chí Minh khỏi vụ án Phan Bội Châu. <br />Trong khi đó, một tài liệu khác của Cộng Sản Việt Nam giao cho UNESCO là tập Bác Hồ những năm tháng ở nước ngoài của Đặng Hòa lại dành nhiều trang tả cuộc gặp gỡ rất thân thiết giữa 2 người như sau: “Với địa chỉ do cơ quan Borodin cung cấp, ông Nguyễn lên Hàng Châu tìm gặp cụ Phan Bội Châu. Sau hai mươi năm trời mới gặp lại, ông thấy cụ vẫn quắc thước và tràn đầy nhiệt huyết như xưa. Còn cụ Phan, cụ rất mừng khi gặp lại ông Nguyễn, con trai cụ Phó Bảng làng Sen thân thiết. Những năm đầu thế kỷ, khi cụ khởi xướng phong trào Đông Du, đã có lần cụ ngỏ ý với cụ Phó Bảng để anh Nguyễn lúc đó mới 14 tuổi đi theo con đường của cụ. Nhưng người thiếu niên của dòng họ Nguyễn Sinh đó đã đi con đường của riêng anh, con đường khác với các bậc cha chú đương thời.<br />Gặp lại nhau, hai bác cháu hàn huyên trò chuyện. Những kỷ niệm của quá khứ được nhắc đến. Ông Nguyễn còn đọc lại cho cụ Phan nghe hai câu thơ trong cuốn Túy Viên mà 23 năm trước, năm 1901 trong bữa rượu say với cụ Phó Bảng tại nhà ông Nguyễn, cụ Phan đã đọc:<br />Mỗi phận bất vong ghi trúc bạch<br />Lập thân tối hạ thị văn chương<br />(Mỗi bữa không quên ghi sử sách<br />Lập thân hèn nhất là văn chương)<br />……<br />Trong cuộc đàm luận, cụ Phan đã giới thiệu với ông Nguyễn danh sách 14 người yêu nước đã cùng cụ hoạt động bấy lâu. Trong danh sách đó, có một số thanh niên mà cơ quan Borodin đã cung cấp cho ông hôm trước. <br />Vài năm sau cuộc hội kiến lịch sử này, khi Phan Bội Châu đã trở thành Ông Già Bến Ngự để quãng đời cuối cùng trôi qua trên đất Huế, đã có đôi lần khi các thanh niên yêu nước hỏi cụ:<br />– Bây giờ cụ về nước thì ở nước ngoài còn có người Việt Nam nào thay cụ dẫn dắt đồng bào được nữa?<br />Cụ đã không ngần ngại mà trả lời rằng:<br />– Vẫn còn, còn có Nguyễn Ái Quốc, ông Nguyễn giỏi hơn tôi, ông sẽ làm được việc đó! (19) <br />Tuy viết dài về cuộc gặp gỡ, Đặng Hòa không nhắc một chữ đến việc Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt mà còn vẽ ra sự ngưỡng mộ cảm phục của Phan Bội Châu đối với Hồ Chí Minh bằng một chứng liệu vu vơ, nhất là nhắc đến cái tên Nguyễn Ái Quốc mà Hồ Chí Minh giấu kín vào lúc đó. <br />Một tài liệu khác của Cộng Sản Việt Nam đề cập tới vụ này cũng không với một tình tiết nào ngoài việc đặt Phan Bội Châu dưới sự dắt dẫn của lãnh tụ Hồ Chí Minh – một điều không thể nào có chiếu theo hoàn cảnh thực tế lúc đó tại Hoa lục: “Trên đường đi từ Hàng Châu tới Quảng Đông dự kỷ niệm một năm ngày liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh trong vụ nổ bom mưu sát Toàn Quyền Đông Dương Meclanh ở Sa Điện, cũng nhân đó để gặp gỡ các đồng chí của mình tiến hành cải tổ Việt Nam Quốc Dân Đảng theo gợi ý của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt cóc ở nhà ga Thượng Hải và đưa về Việt Nam. Sự kiện này đã cắt đứt những khả năng tốt đẹp của Phan có thể vươn tới trong sự nghiệp cứu nước của mình dưới tác động của tình hình cách mạng thế giới và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc” (20) <br />Riêng Hồ Chí Minh gần như tuyệt đối không nhắc đến vụ Phan Bội Châu bị bắt. Trong các bài viết, Hồ Chí Minh luôn kể lại những ngày thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, nhưng chỉ một lần nói tới tên Phan Bội Châu khi dùng bút hiệu Trần Dân Tiên và gần như còn đặt nội vụ vào một thời gian khác hẳn: “Vừa nghiên cứu làm việc để sống, ông Nguyễn vẫn ra sức làm việc cho tổ quốc mình. Ông bắt đầu tổ chức đồng bào Việt kiều ở Trung Quốc. Tổ chức này gọi là Hội Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí…<br />Hoạt động của Hội Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí bắt đầu lan vào trong nước. Thực dân Pháp gián tiếp giúp đỡ rất nhiều. <br />Vì sao vậy?<br />Trong khi tài liệu và báo chí của ông Nguyễn bí mật lọt vào nước rất khó khăn thì bọn thực dân làm to chuyện để yêu cầu đàn áp. Đó là một quảng cáo rất tốt cho công việc của ông, làm cho đồng bào chú ý, làm cho họ càng thích được nghe tuyên truyền cách mạng. <br />Hơn nữa, thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão sĩ yêu nước Phan Bội Châu, lúc bấy giờ ở Trung Quốc và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu thả cụ Phan. Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy. Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước. (21) <br />Trong lúc các tác giả Cộng Sản Việt Nam tránh né vấn đề thì William J. Duiker dựa vào mối nghi ngờ của Phan Bội Châu để bác bỏ việc Hồ Chí Minh dính vào việc bán người. <br />Duiker viết chính Phan Bội Châu đã cho biết kẻ chỉ điểm cho Pháp bắt mình là Nguyễn Thượng Huyền. <br />Thực ra, qua những dòng trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu chỉ cho biết được nghe nói như thế và tin theo chứ không hề xác định với bằng chứng nào. Sự việc này đã được sử gia Phạm Văn Sơn đề cập và cho rằng Phan Bội Châu nghi oan cho Nguyễn Thượng Huyền. <br />Chính Nguyễn Thượng Huyền đã lên tiếng khi biết nội vụ vào dịp về Việt Nam – “khoảng năm 1965, cụ Nguyễn Thượng Huyền có về Việt Nam và đăng một bài cải chính nói rõ vụ việc trên tờ “Bách Khoa” số 73”. (22) <br />Như vậy, trong ba người được nêu tên liên hệ đến vụ bán người thì hai người đã lên tiếng. Nguyễn Thượng Huyền đối diện thẳng với vấn đề để chứng minh sự vô can của mình còn Lâm Đức Thụ, theo ghi nhận của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, đã khoe đó là thành tích do chính mình đạt được. <br />Vào năm 1925, Lâm Đức Thụ là người thân tín của Hồ Chí Minh được dành cho vai trò lãnh đạo cao nhất của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội nên không thể không bàn bạc với Hồ Chí Minh về mọi công việc. <br />Ngoài ra, những người từng có mặt trong tổ chức trên như Lê Dư, hoặc quan trọng hơn nữa như Vương Thúc Oánh đều cho biết sự việc đã diễn tiến ra sao. <br />Cho nên chỉ dựa vào việc Phan Bội Châu nghi ngờ Nguyễn Thượng Huyền thay vì Hồ Chí Minh chưa thể đủ lý do để kết luận. Đối với Phan Bội Châu, cả Nguyễn Thượng Huyền lẫn Hồ Chí Minh đều như con cháu nên đều được tin cậy. Phan Bội Châu nghi Nguyễn Thượng Huyền chỉ vì Nguyễn Thượng Huyền đang ở kề cận biết rõ hành trình của mình và đã có người tới nói rằng Nguyễn Thượng Huyền làm việc đó. <br />Dù biện minh của Duiker được đánh giá ra sao thì vẫn cho thấy Duiker không nhìn vấn đề như Halberstam mà coi hành vi bán người là điều không thể chấp nhận. <br />Duiker vốn ngưỡng mộ Hồ Chí Minh nên cố đẩy hành vi này cho kẻ khác. Tuy nhiên, Duiker không thể phủ nhận một sự việc hiển nhiên là lời cáo buộc của Hà Huy Tập về trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong việc đẩy hàng trăm người vào tay mật thám Pháp. <br />Trong tác phẩm của mình, Duiker đã ghi: “...Hà Huy Tập nhân dịp báo cáo gửi Mạc Tư Khoa về kết quả của đại hội đảng, đã tấn công thêm mấy đòn vào Nguyễn Ái Quốc. Trong thư ngày 31-3-(1932) gửi cho Dalburo, ông đã ghi là các đảng viên ở Đông Dương và Xiêm đang công khai đấu tranh chống di sản của ý thức hệ “cách mạng dân tộc” của Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và lãnh tụ của tổ chức này là Nguyễn Ái Quốc. Tập đề xuất buộc Quốc phải tự kiểm điểm để nhìn nhận đã phạm sai lầm trong quá khứ...<br />“Mấy tuần sau Tập trở lại tấn công Quốc, bảo nhiều đại biểu của đại hội Macao đã quy trách, ít nhất một phần, cho Quốc về vụ hơn 100 đảng viên của Đông Dương Cộng Sản Đảng, và của Thanh Niên Đồng Chí Hội bị Pháp bắt. Vì Quốc đã biết Lâm Đức Thụ là gián điệp mà vẫn dùng. Tập cũng cáo buộc Quốc đã bất cẩn bắt mỗi học viên ở học viện Quảng Đông phải nộp cho Quốc một tấm ảnh, cũng như tên, họ, địa chỉ của thân nhân. Những tài liệu này sau rơi vào tay Pháp. Vì vậy “Quốc không bao giờ có thể cho là mình không có trách nhiệm về những hành động đó”. (23)<br />Về việc này, Việt Thường cẩn thận hơn William J. Duiker, đã ghi nguyên văn một đoạn trong báo cáo của Hà Huy Tập gửi QT3 đề ngày 20-4-1935 như sau:<br />"Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn 100 hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:<br />a) Quốc biết rõ Lâm Đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn.<br />b) Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rõ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.<br />c) Ở trong nước, ở Xiêm (Thái Lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.” (24) <br />Theo Hà Huy Tập, Hồ Chí Minh đã sai lầm khi đòi hỏi những người gia nhập tổ chức phải khai rõ lý lịch, nộp hình ảnh và tin cậy Lâm Đức Thụ nên những tài liệu này rơi vào tay mật thám Pháp khiến hàng trăm người đã bị bắt. <br />Hà Huy Tập cũng cho rằng Hồ Chí Minh thiếu trung thành với tinh thần quốc tế vì tỏ ra nghiêng theo chủ nghĩa dân tộc. <br />So nguyên văn báo cáo của Hà Huy Tập với lời tường thuật của Duiker có một khác biệt là Hà Huy Tập không nói Đông Dương Cộng Sản Đảng mà chỉ nói hội viên đoàn thanh niên trước đó tức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội do Hồ Chí Minh giao cho Lâm Đức Thụ lãnh đạo một thời gian. <br />Về việc này, Duiker viết: “Có lẽ Nguyễn Ái Quốc đã được đọc những báo cáo như thế (của HHT) khi chúng đã tới Mạc Tư Khoa. Ông ta nghĩ gì về lời phê bình của Tập đối với hành động của ông thì không biết. Nhưng thái độ chung của ông được bộc lộ trong một lá thư gửi cho ai đó ở Bộ Phương Đông vào tháng 1-1935: Ông than phiền rằng trình độ hiểu biết về chủ nghĩa lý thuyết của các học viên Đông Nam Á từng theo học ở Mạc Tư Khoa rất thấp. Nhiều người không hiểu thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, hay thế nào là sự liên hệ của cách mạng ruộng đất với chính nghĩa chống đế quốc...” (25)<br />Hồ Chí Minh chê những sinh viên Đông Nam Á – trong đó có Trần Phú, Hà Huy Tập đã phê bình ông – là đúng vì quả tình họ không hiểu cách hành động của Hồ Chí Minh và cũng chưa nắm vững quan điểm chiến lược sách lược liên minh giai đoạn của Lênin. <br />Vận dụng chiêu bài chủ nghĩa dân tộc trong thời điểm đó là một bước đi sách lược cần thiết. Vì chỉ bằng bước đi này mới có thể xâm nhập các tổ chức và cuốn hút quần chúng để gây dựng lực lượng. <br />Bước đi cần thiết thứ hai là không nương tay với những phần tử cản đường và Hồ Chí Minh đã trù liệu đối phó bằng sự mượn tay mật thám Pháp nên kết thân với Lâm Đức Thụ là người đang cộng tác với Pháp. <br />Dù đã nắm được tổ chức Tâm Tâm Xã xoay chuyển thành Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội, Hồ Chí Minh vẫn hiểu hầu hết hội viên của tổ chức này thuộc hàng ngũ quốc gia yêu nước. Do đó, yêu cầu khai rõ lý lịch với các chi tiết về nơi ở, người thân khi có việc cần và nộp hình không phải khuyết điểm như Hà Huy Tập đã nghĩ mà là một việc được tính kỹ để thanh toán các phần tử sẽ biến thành trở ngại như phản đối chủ nghĩa Cộng Sản hoặc thiếu trung thành với Đệ Tam Quốc Tế. <br />Khi xẩy ra các sự việc này, Hồ Chí Minh chỉ cần nhắc Lâm Đức Thụ cung cấp tài liệu cho mật thám Pháp.<br />Cho nên, mặc dầu có những báo cáo trên, Hồ Chí Minh vẫn được tin cậy ở vai trò cán bộ đại diện Đệ Tam Quốc Tế tại Đông Nam Á, còn những người như Trần Phú, Hà Huy Tập dù nối tiếp nhau giữ chức tổng bí thư Đông Dương Cộng Sản Đảng vẫn chỉ là cán bộ thuộc một chi bộ địa phương. <br />Những báo cáo của Hà Huy Tập không tác hại tới vị thế của Hồ Chí Minh nhưng là chứng liệu cụ thể về tương quan giữa Hồ Chí Minh với mật thám Pháp vào những năm cuối thập niên 1920 đầu thập niên 1930. Mối tương quan này đã khiến hàng trăm người yêu nước rơi vào vòng tù tội do bàn tay của Hồ Chí Minh.<br />Vì thế, việc bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp có thể coi là sự việc khơi gợi cho một phương pháp hành xử của Hồ Chí Minh và cũng có thể coi là hành vi mở đầu cho một phương pháp đã được trù tính trước. <br />Trong sự biện bạch, Duiker cố loại Hồ Chí Minh khỏi vụ bán Phan Bội Châu và có những lời lẽ lấp lửng để người đọc thấy hàng trăm người bị bắt về sau chỉ do Hồ Chí Minh lầm tin Lâm Đức Thụ. Nhưng cũng chính Duiker đã quả quyết Hồ Chí Minh luôn nắm vững đường lối đấu tranh Lênin tức là tín đồ cuồng nhiệt của chủ thuyết bá đạo Sergey Nechayev. Mọi lời biện bạch trở nên không cần thiết vì với một người như thế, việc gì cũng có thể xảy ra. <br />Riêng với Phan Bội Châu dù tên tuổi luôn được các tác giả Cộng Sản Việt Nam nhắc đến như một vết son tô điểm thêm cho huyền thoại Hồ Chí Minh, nhưng chính Hồ Chí Minh từng nêu rõ ý mình như sau: “Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. (26)<br />Đẩy một kẻ “rước beo cửa sau” vào tù ngục hoặc vào cõi chết đâu có phải điều khó khăn với một người đã chọn bá đạo làm phương châm hành động. <br />Vả lại, từ sau khi qua các lớp huấn luyện tại Mạc Tư Khoa, Hồ Chí Minh đã chọn con đường không chấp nhận tinh thần yêu nước là yêu dân tộc. Từ giữa năm 1923, đối với Hồ Chí Minh, yêu nước là phải yêu xã hội chủ nghĩa. <br />Phan Bội Châu đã quay lưng lại với xã hội chủ nghĩa ngay từ cuộc gặp gỡ đại diện Nga tại Bắc Kinh năm 1920 do tinh thần yêu dân tộc. <br />Vì thế, nếu Phan Bội Châu bị đối xử như cách đối xử dành cho những phần tử thuộc Tâm Tâm Xã không chấp nhận Cộng Sản sau năm 1925 cũng là chuyện bình thường.<br />CHÚ THÍCH<br />CHƯƠNG 45 <br />___________________________<br /> <br />(01) Phan Bội Châu Niên Biểu hay Tự Phán là tác phẩm được biên soạn trong thời gian Phan Bội Châu bị quản thúc tại Huế từ 1925 đến 1940. Tác phẩm viết bằng Hán văn do chính Phan Bội Châu tự dịch ra Việt văn, mang tính hồi ức về nhiều nhân vật, sự việc đã qua từ thời thiếu niên tới lúc bị bắt đưa về Huế và được in thành tập 6 của bộ Phan Bội Châu Toàn Tập do Chương Thâu biên soạn, Nxb Thuận Hóa, Huế 1990. Phan Bội Châu Niên Biểu đã được Nguyễn Khắc Ngữ chú giải, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa ấn hành tại Saigon 1973 và được Huy Phong – Yến Anh sưu tầm trích lại trong Exploring the Hồ Myth, Thằng Mõ, Cali xb 1998. <br />(02) Ngoài Phong trào Duy Tân và Đông Du, Phan Bội Châu còn sáng lập Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Cống Hiến Hội, Tâm Tâm Xã, và ba tổ chức có tính liên quốc gia Chấn Hoa Hưng Á Hội, Đông Á Đồng Minh Hội, Điền Quế Việt Liên Minh Hội. Ông cũng là người có sáng kiến phát hành Việt Nam Quang Phục Quân Quân Dụng Phiếu để gây quỹ hoạt động cách mạng...Ông đã có những trước tác khá quan trọng như Liên Á Sơ Ngôn, Tân Việt Nam toàn thư, Ngục Trung Thư… <br />(03) Phan Bội Châu Toàn Tập - Nxb Thuận Hóa, Huế 1990 – Tập 6, tr. 271-273. Theo chú thích thì tên người Nga trưởng đoàn Du Hoa Đoàn có thể là Iurine Voitinski, tên Nga của viên tham tán (được gọi là Lạp tiên sinh) là Khodorov và tên đại sứ Nga lúc đó là Karakhan. <br />(04) Nguyên văn trong Phan Bội Châu niên biểu, bản do Chương Thâu biên tập: “Nguyễn Ái Quốc tiên sinh từ Mạc Tư Khoa kinh thành nước Nga về đến Quảng Đông, ý ông chưa lấy chương trình, đảng cương này làm hoàn thiện, ông đã nhiều lần viết giấy cho tôi, bảo phải sửa sang nhuận sắc lần nữa, nhưng chưa được bao lâu thì tôi bị bắt về Hà Nội”.<br /> Phan Bội Châu niên biểu, bản do Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang Phiệt chép là: “…thường thường bàn với tôi nên sửa đổi lại…”<br />Phan Bội Châu niên biểu, bản do Nguyễn Khắc Ngữ chú giải chép là: “…ông đã nhiều lần nhắc tôi thay đổi…”<br />(05) Tức ngày 30-6-1925.<br />(06)-(08) Phan Bội Châu Toàn Tập – Nxb Thuận Hóa, Huế 1990 – Tập 6, tr. 290-291, 289-290<br />(07)-(22) Việt Sử Tân Biên – Phạm Văn Sơn, Sàigòn 1972 – Q.7, tr. 254, 229<br />(09) Vietnam, a dragon embattled – Joseph Buttinger, Tome I, tr. 153<br />(10) Cuộc đời Cách Mạng – Cường Để, Saigon 1968, tr. 121<br />(11) Huyền thoại Cộng Sản – Hoàng Duy Hùng, Hưng Việt, Cali 1999, tr.139-140<br />(12) Theo Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam – Lữ Giang, Cali, 1998, tr. 69-72. <br />(13) North Việt Nam Today – J.P Honey, tr. 4. <br />(14) Ám chỉ Lâm Đức Thụ.<br />(15) Ho – David Halberstam, tr. 44- 45.<br />(16) Biên niên tiểu sử – Tập I, tr. 210<br />(17)-(18) Phan Bội Châu Toàn Tập – Nxb Thuận Hóa, Huế 1990 – Tập 6, tr. 23 & tr.288<br />(19) Bác Hồ những năm tháng ở nước ngoài – UNESCO … Hà Nội 1999, tr. 96-98<br />(20) Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945– Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr.90-91<br />(21)-(26) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch – Nxb Văn Học 2001, tr. 71-72, 11 <br />(23)-(25) Ho Chi Minh, a life – Duiker, tr. 222.<br />(24) Sự tích con yêu râu xanh – tr. 271Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159068814356781082006-09-24T13:32:00.000+10:002006-09-24T13:34:19.166+10:00* Chương 46* HỒ CHÍ MINH từ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 tới Cải Cách Ruộng Đất 1953Hai dấu ấn đậm đà mà chủ nghĩa Cộng Sản ghi lại trên đời sống Việt Nam, đặc biệt tại nông thôn, là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
<br />Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào nổi dậy đầu thập niên 1930 chống chính quyền đương thời lúc đảng Cộng Sản Việt Nam vừa thành lập và phát động đấu tranh với danh nghĩa Cộng Sản.
<br />Cuộc Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện vào hai thập kỷ sau, đầu thập niên 1950, khi Cộng Sản thực sự nắm quyền trên một phần đất nước.
<br />Cả hai biến cố đều do Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương nhưng đều có dư luận biện giải là Hồ Chí Minh không chịu trách nhiệm.
<br />Từ giữa thập niên 1930 tới cuối thập niên 1940, gần như các tài liệu Cộng Sản Việt Nam thường coi Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự phát nằm ngoài ý định của Hồ Chí Minh và cách biện giải này đã ảnh hưởng tới nhiều tác giả nghiên cứu về Việt Nam và con người Hồ Chí Minh.
<br />Từ thập niên 1950 trở về sau, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được nhìn theo chiều hướng khác hơn không còn được coi là một cuộc nổi dậy mang tính tự phát nữa.
<br />Sở dĩ có tên Xô Viết Nghệ Tĩnh vì “... khi được tin nông dân nổi dậy ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã vội vã báo cáo hồi tháng 11 năm đó (1930) cho Quốc Tế Cộng Sản và Quốc Tế Nông Dân là: “Hiện nay ở một số làng Đỏ, Xô Viết Nông Dân đã được thành lập”. Từ đó cái tên Xô Viết Nghệ Tĩnh được tung ra và trở thành lịch sử.” (1)
<br />Phong trào đã được xác định không khuôn hạn trong hai tỉnh Nghệ – Tĩnh mà phát động trên toàn quốc. Trần Văn Giàu so sánh với cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng như sau: "Nếu Yên Bái nổi lên ở một vài địa phương lẻ tẻ trên chỉ một xứ Bắc Kỳ, thì cao trào 1930-1931 phát triển trên toàn quốc, khắp Trung, Nam, Bắc.” (2)
<br />Hồng Hà phổ biến nội dung báo cáo ngày 29-9-1930 của Hồ Chí Minh gửi Đệ Tam Quốc Tế ghi rõ “nông dân Gia Định, Chợ Lớn và Tân An ở Nam Kỳ cũng biểu tình ngày 12-9 (và) ngày 17 nông dân Gia Định lại biểu tình”. (3)
<br />Dương Trung Quốc viết: “Phối hợp với Xô Viết Nghệ Tĩnh, phong trào cách mạng Việt Nam ở các tỉnh Nam Trung Kỳ cũng phát triển mạnh… Các cuộc đấu tranh này đều có vũ trang và uy hiếp các cơ quan chính quyền của địch. Tiêu biểu trong cao trào này là cuộc biểu tình vũ trang thị uy của 3000 nông dân huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) ngày 7-10-1930 …” (4)
<br />Sử gia Pháp Daniel Hémery ghi là trong ít tháng từ tháng 5-1930 đến mùa hè 1931, cộng sản đã tổ chức 124 cuộc biểu tình bạo động khắp nơi.
<br />Tài liệu Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam được giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam hiện nay đưa ra con số gấp mười lần con số của sử gia Hémery – “Từ tháng 2 năm 1930 đến tháng 4 năm 1931 trong cả nước đã có 1236 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân… Chỉ trong tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh, 29 cuộc ở miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở miền Nam ... Đấu tranh của quần chúng đã bùng nổ khắp nơi, tập trung ở các nhà máy, xí nghiệp, vùng mỏ như Hànội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả, Vinh – Bến Thủy, Saigon, Chợ Lớn vân vân...; ở các vùng nông thôn như Gia Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nam, Kiến An...” (5)
<br />Phong trào được phát động với khẩu hiệu “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, biểu hiện tính triệt để của giai cấp đấu tranh đã dẫn đến thảm cảnh đẫm máu tại nhiều địa phương. Để đào tận gốc, trốc tận rễ bốn thành phần thù địch là trí thức, phú nông, địa chủ, kỳ hào, đấu tranh bạo động trở thành phương tiện chủ yếu.
<br />Nông dân được tuyên truyền kích động nổi dậy trừng trị kẻ thù của giai cấp bằng mọi biện pháp kể cả tàn sát và tàn sát bất phân già trẻ lớn bé. Vì, dù là trí, phú, địa, hào thì kẻ nào cũng có gia đình, con cháu trong khi khẩu hiệu nêu rõ phải đào tận gốc, trốc tận rễ nên không thể nương tay.
<br />Nhưng không chỉ riêng máu của những thành phần trên phải đổ mà máu của nông dân cũng chan hòa vì sự đàn áp dữ dội của chính quyền thực dân Pháp.
<br />Để đối phó với cuộc bạo động ngày 12-9-1930 của nông dân phủ Hưng Nguyên, Nghệ An, người Pháp đã đưa máy bay tới thả bom vào giữa các đám đông sát hại 217 người. (6) Bạo động kéo dài cho tới mùa hè 1931 và trải rộng trên nhiều địa phương nên thảm cảnh chém giết đã tạo một ấn tượng kinh hoàng đối với quần chúng khắp nước. Hai tiếng Cộng Sản trở thành mối đe dọa khủng khiếp vì là ám ảnh chết chóc từ cả hai phía, Pháp và những người đấu tranh cách mạng.
<br />Trong Lời kêu gọi được thông qua vào dịp thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào đầu tháng 2-1930 tại Hong Kong, Hồ Chí Minh đã viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” (7)
<br />Đi vào bước ngoặt lịch sử này, Đảng đưa ra công việc đầu tiên cho giai cấp vô sản được đánh giá đã trưởng thành là nổi dậy triệt hạ 4 kẻ thù trí-phú-địa-hào. Đảng đã theo đúng quan điểm chiến lược Lênin chọn giai cấp bần nông làm nòng cốt với mục tiêu cụ thể là tịch thu tài sản ruộng đất của các thành phần thù địch chia lại cho dân – tức giai cấp vô sản. Cảnh sống khó khăn và trình độ dân trí thấp kém đã giúp các cán bộ tuyên truyền nhanh chóng lôi cuốn được những đám đông.
<br />Phong trào được hưởng ứng và kết quả những ngày đầu có vẻ thuận lợi nên lập tức các kiểu mẫu chính quyền Xô Viết được thành lập gây hứng khởi cho nhóm lãnh đạo khiến Hồ Chí Minh vội vã báo cáo ngay với Đệ Tam Quốc Tế về việc đã có những làng Đỏ tại Việt Nam với các Xô Viết Nông Dân.
<br />Nhưng, hành động đấu tranh mang tính thúc đẩy những cuộc cướp của giết người đã gây ác cảm trong dư luận.
<br />Nhà báo Nguyễn Phan Long trên tờ Đuốc Nhà Nam trong số ra ngày 8-8-1930 đã có một bài viết về những cuộc nổi dậy này được Trần Văn Giàu trích lại như sau: "Tôi dám chắc rằng trong đám dân biểu tình, ngoài mấy anh đầu đảng ra không nói, còn mấy người sau đều là đám dân ngu khờ khạo bị chúng cám dỗ hết thảy. Thiệt vậy, theo người ở Hốc Môn nói với tôi, có nhiều người ở trong làng xưa nay là dân nghèo khù khờ ngu dại thế mà bị Cộng Sản đến diễn thuyết, nói những lời dưới đất trên trời, làm cho những người ấy hóa ra những người biểu tình rất hăng hái!”
<br />Trần Văn Giàu cũng trích lại lời phát biểu của nhà báo Dương Bá Trạc trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn: “Làm cộng sản là những thằng dốt, theo cộng sản là những đứa ngu.”
<br />Như thế, ngay trong lần đầu công khai xuất hiện tại Việt Nam, Cộng Sản đã không thu phục nổi nhân tâm.
<br />Đây là lý do khiến đảng Cộng Sản phải ẩn mình dưới chiêu bài Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm và cũng là lý do khiến một thời gian dài về sau cán bộ Cộng Sản các cấp thường xuyên coi Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự phát.
<br />Những luận điệu này cho tới năm 2000 còn được nhiều tác giả tiếp tục vận dụng để chứng minh sở kiến của mình như Douglas Pike, William J. Duiker…cho rằng Hồ Chí Minh không chủ trương bạo động nên không chịu trách nhiệm về những thảm cảnh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
<br />Douglas Pike còn thu hẹp phong trào vào phạm vi vài huyện của 2 tỉnh Nghệ Tĩnh để cho đó là những biến cố địa phương nhỏ hẹp.
<br />Thực ra, chính Hồ Chí Minh vẫn coi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là một thành tích lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam với sự đánh giá: “Tuy đế quốc đã dập tắt phong trào đó trong bể máu, nhưng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam” (8)
<br />Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh xác nhận chỉ 2 tháng sau khi thành lập, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát động những cuộc tranh đấu lan rộng khắp nước kéo dài suốt 13 tháng, từ tháng 4-1930 đến tháng 5-1931 và viết: “Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến, và lập chính quyền Xô Viết.” (9)
<br />Những người như Douglas Pike, William J. Duiker… có vẻ muốn thu hẹp cái bể máu Xô Viết Nghệ Tĩnh vào phạm vi một địa phương và cố đẩy thần tượng của mình ra xa bằng các màu sắc hiếu hòa ghét bạo lực, nhưng Hồ Chí Minh lại không che đậy nổi sự hứng khởi trước những cuộc nổi dậy.
<br />Thêm nữa, riêng việc Hồ Chí Minh thường xuyên báo cáo cho Đệ Tam Quốc Tế ngay lúc vừa bắt đầu có các cuộc bạo động đã đủ để không thể bảo rằng Hồ Chí Minh không chịu trách nhiệm về những thảm cảnh đã xẩy ra.
<br />Trong bản báo cáo ngày 29-9-1930, Hồ Chí Minh còn nêu rõ số người bị chết và cho biết đã chỉ thị cho đảng viên, đồng thời xin chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế về những bước đi tiếp: “Hơn 200 người đã bị Pháp giết... Chúng tôi đã chỉ thị ngay cho các đảng viên Nam Kỳ ở trong nước cố gắng hết sức mình thu xếp một cuộc họp của trung ương để quyết định mọi việc....Đề nghị cho biết ngay chúng tôi phải làm gì và các đồng chí có thể làm gì giúp họ.” (10)
<br />Báo cáo này chỉ có thể giúp Hồ Chí Minh trút trách nhiệm cho Đệ Tam Quốc Tế với lập luận không thể làm trái chỉ thị thượng cấp. Nhưng trút tội theo cách này thì khác gì kẻ cầm dao giết người trút tội cho kẻ trả tiền mướn.
<br />Tuy vậy, cách trút tội này đã được vận dụng khá nhiều vào hai thập kỷ sau, khi Cộng Sản Việt Nam tiến hành cải cách ruộng đất tại miền Bắc.
<br />Cải Cách Ruộng Đất là việc bắt buộc phải làm tại các nước nặng về nông nghiệp với nhiệm vụ phá bỏ quyền tư hữu tiến tới hợp tác hóa nông nghiệp để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô, Trung Quốc đều thực hiện cải cách ruộng đất sau khi Cộng Sản giành được chính quyền.Việt Nam cũng bước vào diễn trình này sau khi Cộng Sản kiểm soát một phần lãnh thổ và tái xuất hiện dưới tên gọi mới Đảng Lao Động Việt Nam.
<br />Nhưng, Cải Cách Ruộng Đất không chỉ nhắm riêng về kinh tế mà đặc biệt chú trọng về chính trị với mục tiêu củng cố quyền lực cho Đảng. Được hướng dẫn trực tiếp bởi các đặc phái viên thổ địa Trung Cộng, giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã thuộc lòng bài học kinh nghiệm Hoa Lục sau khi Quốc Dân Đảng Trung Hoa thất bại như sau: “… Quốc Dân Đảng là đảng vốn có thế lực cực lớn ở Hoa Nam, bắt rễ khá sâu trong xã hội Trung Quốc… Số người của Quốc Dân Đảng bỏ chạy sang Đài Loan hoặc ra nước ngoài rất ít so với số dân khổng lồ. Có một số người chỉ trốn loanh quanh, tạm lánh rồi trở lại quê hương. Cho nên cải cách ruộng đất là biện pháp cơ bản để phát hiện rồi triệt hạ hết mọi tổ chức Quốc Dân Đảng và vô vàn tổ chức thanh niên, phụ nữ, xã hội, tôn giáo, từ thiện, thể thao, nghệ thuật có dính đến Quốc Dân Đảng … Tay chân của Quốc Dân Đảng hoặc liên quan đến Quốc Dân Đảng thâm nhập rất sâu, leo lên rất cao, cần cảnh giác phát hiện và nếu cần, giải thể hết bộ máy cũ, tạo nên bộ máy hoàn toàn mới gồm những trung kiên, cốt cán, phát hiện và được rèn luyện trong cuộc đấu tranh “long trời lở đất” này…” (11)
<br />Kinh nghiệm nêu trên dẫn đến ý kiến khắp các địa bàn, cơ cấu chính quyền Cộng Sản Việt Nam khó tránh tình trạng bị phản động mai phục và Cải Cách Ruộng Đất chính là biện pháp cơ bản để phát hiện, tiêu diệt những phần tử này – Hoàng Văn Hoan gọi là “mở rộng thành vấn đề chỉnh đốn tổ chức”.
<br />Ngay sau đại hội Đảng kỳ 2 tháng 12-1951 tại Việt Bắc, vấn đề Cải Cách Ruộng Đất được chuẩn bị và chuẩn bị khá kỹ từ thực tế đến pháp lý.
<br />Trường Chinh trở thành Trưởng Ban Cải Cách Ruộng Đất gồm Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng, Chu Văn Biên. Một số địa phương thuộc Thanh – Nghệ – Tĩnh và Thái Nguyên được chọn làm thí điểm phát động trong thời gian chuẩn bị các văn kiện pháp lý.
<br />Ngay trong thời gian mở đầu này, một chuyện chấn động đã xẩy ra: “Khi đội phát động đến vùng đồn điền Đồng Bẩm sát ngoại ô thành phố Thái Nguyên làm thí điểm phát động nông dân, chủ đồn điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng hộ các chiến sĩ Cộng Sản từ thời bí mật, từ những năm 1937-1938… Chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đã được bà che chở nuôi dưỡng. Hai con trai của bà hoạt động Việt Minh từ thời bí mật, đi bộ đội giải phóng…Cố vấn Trung Quốc nhận định bừa rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu. Một số nông dân chất phác ngây thơ kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà. Những người này bị cố vấn Tàu và ông Đội Trưởng quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che, chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đấu tranh trực diện của nông dân, kể tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với màn xử bắn”. (12)
<br />Hoàng Quốc Việt là người từng được bà Nguyễn Thị Năm che chở, nuôi dưỡng đã tới báo cáo với Hồ Chí Minh và thuật lại: “Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ và lại là người từng nuôi cán bộ Cộng Sản và mẹ một chính ủy trung đoàn Quân Đội Nhân Dân đang tại chức”. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói ông Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này! Thế nhưng không có gì động đậy theo hướng đó cả”. (13)
<br />Sau đó nạn nhân đã bị đưa ra xử bắn và “khắp đồng quê miền Bắc” diễn ra “những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp “địa chủ” (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau…Họ đều được biểu dương là lập trường giai cấp vững chắc và dứt khoát, giác ngộ giai cấp sâu sắc, là những đảng viên trung kiên của Đảng, thấm nhuần tận xương tủy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, được nêu gương để toàn đảng học tập!…Hơn 10 ngàn người đã bị bắn trong các tòa án nhân dân vừa hừng hực khí thế kích động căm thù, vừa mù quáng kỳ quặc, một chiều theo kiểu a dua của đám đông – những cơn động kinh của đám đông cuồng tín ít học.” (14)
<br />Hoàng Văn Chí là người từng đứng trong hàng ngũ Việt Minh chống Pháp trước 1954 chia Cải Cách Ruộng Đất làm 2 đợt, đợt đầu gọi là “Giảm Tô”, mỗi xã trong khoảng 10 ngàn xã tại Bắc Việt phải chọn ra một địa chủ để hành quyết. Như vậy 10 ngàn chỉ là số nạn nhân của đợt đầu. Sang đợt 2, con số phải chết ở mỗi xã theo tiêu chuẩn đề ra tăng lên 5. Nếu cộng cả 2 đợt ít nhất phải có 60 ngàn người bị hành quyết tại chỗ. Nhưng theo Hoàng Văn Chí, “chính sách cô lập nổi tiếng từng phải chịu trách nhiệm về số người chết có lẽ 10 lần nhiều hơn số đã bị xử bởi các “tòa án nhân dân đặc biệt”. (15)
<br />Sắc lệnh 149-SL qui định về chính sách ruộng đất và sắc lệnh 151-SL qui định về trừng trị địa chủ do Hồ Chí Minh ký ngày 12-4-1953 là thời gian đang tiến hành chiến dịch giảm tô mà ý nghĩa đã được diễn tả như sau: “Nhà Nước Việt Nam đã quyết định đưa đấu tranh phản phong tiến lên một bước mới, tiếp thu kinh nghiệm của Trung Quốc đã sử dụng bạo lực chính trị của quần chúng đấu tranh đòi địa chủ phải giảm tô, giảm tức.” (16) Đây cũng là đợt thí điểm của Cải Cách Ruộng Đất.
<br />Ngày 4-12-1953 các sắc lệnh trên được Quốc Hội thông qua và Hồ Chí Minh chính thức ban hành ngày 19-12-1953 nhân kỷ niệm Ngày Toàn Quốc Kháng Chiến mở đầu cho các đợt chính thức của Cải Cách Ruộng Đất trên khắp miền Bắc.
<br />Thực tế của việc sử dụng bạo lực chính trị quần chúng và con số nạn nhân tại một số địa phương từ ngày chính thức ban hành chính sách tới khi có quyết định sửa sai theo ghi nhận của tạp chí Nghiêu Cứu Lịch Sử số 267 tháng 4-1993 và nội san Cải Cách Ruộng Đất các số 10,11,14 xuất bản tại Hà Nội đầu năm 1956 như sau: “Ở đồng bằng Bắc Bộ trong số 2033 xã đã có 63,111 hộ bị qui là địa chủ nay sửa lại 31,844 không còn là địa chủ. Con số địa chủ chỉ có 31,269 hộ tức chiếm 2.2% trong tổng số hộ ở nông thôn. Ở một xã như xã Trường Vân Thanh Hóa chỉ có 11 địa chủ bị qui lên 65 tức 54 người bị tố oan, bị đấu tố, tù đầy và kể cả bị đánh chết. Trong số 2033 xã, số người bị qui kết là địa chủ lên tới 14,908 người sau đợt sửa sai chỉ còn 3,932 người tức tố sai 10,976 người…
<br />Trong đấu tranh thoái tô, rất nhiều cán bộ dùng nhục hình: treo, đánh, bắt cởi quần áo đứng ngoài đêm rét… Đồng chí L. ở xã Đảng Cương bắt con địa chủ ra truy tố không được, bực quá ra lệnh cho anh em du kích trói chặt cánh khuỷu nó lại và treo lủng lẳng lên cành cây…
<br />Ở xã Hồng Phong, T. bắt con địa chủ Thị Công truy tố. Đồng chí gọi đứa con nó mới 13 tuổi đến giải thích để phản hóa rồi cho nó về với mẹ nó không được. Đồng chí T. nổi giận cho trói đứa bé lại treo ngược lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Một mặt bắt mẹ nó quỳ xuống, dang hai tay ra, mỗi bên đeo một hòn đá nặng rồi đổ nước mắm vào mũi. Đồng chí tưởng nhục hình như thế là moi được tô nhưng rút cục chẳng ăn thua gì (17)
<br />Theo Thành Tín tức cựu đại tá Cộng Sản Bùi Tín, Cải Cách Ruộng Đất gồm đợt thí điểm và 5 đợt tiếp nối, nhưng bắt đầu bước sang đợt 5 vào khoảng đầu năm 1956 thì phải ngưng, vì hậu quả có thể dẫn tới một tình thế bi đát khó lường đoán. Nguyễn Quang Ngọc trong Tiến trình lịch sử Việt Nam cũng cho biết Cải Cách Ruộng Đất gồm 5 đợt tiến hành trong 3653 xã, đã chia khoảng 334,100 ha ruộng đất cho khoảng 2 triệu hộ nông dân không có hoặc thiếu ruộng (18)
<br /> Một nhân chứng cũng là nạn nhân và thoát chết, Phạm Văn Trì, người gốc Hưng Nguyên, Nghệ An từng qua các cuộc đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất cho biết: “… Ở miền Bắc có khoảng 5000 xã. Không phải xã nào cũng đấu cả. Không phải người nào cũng đấu cả. Ví dụ, ông Hồ Chí Minh và Trường Chinh đưa ra một tỉ lệ một xã 1000 dân thì phải có 50 người bị đấu tức 5%. Cứ theo tỉ lệ mà đấu cho đủ số. Ví dụ xã này nghèo quá không đủ số thì tìm sao những người hống hách chút ít đôn lên cho đủ số. Phải đúng tỉ lệ đưa ra không có cũng phải tìm cho đủ. Miền Bắc coi như có 5000 xã thì số đấu tố chết là 250 ngàn người.
<br />– Ông có đích thân chứng kiến những vụ đấu tố không?
<br />– Có! Tôi xin kể cho ông một vài việc tôi chứng kiến tận mắt. Có một vụ đấu tố trong đó nạn nhân bị lột hết cả quần áo ra. Người ta lấy than và dầu hôi bôi vào những chỗ có lông trên thân mình người đó, treo lên và đốt, cháy như nướng trui. Đứa con của nạn nhân mới 3 tuổi, không biết gì, đứng nhìn thấy cha mình bị đốt tưởng đang làm trò nên té lên cười. Có một anh nông dân đứng gần đó thấy vậy, lấy mã tấu chặt đầu đứa nhỏ. Đầu nó rơi xuống đất mà miệng vẫn còn cười.
<br />– Trong các vụ đấu tố đó, nghe nói có một số địa chủ và phú nông bị chôn, chừa cái đầu lên để cho xe cày. Ông có chứng kiến việc đó không?
<br />– Tôi có chứng kiến thế này: Bắt địa chủ ăn cứt, uống nước đái, 3, 4 thằng cầm tay kéo đứt ra, lấy kim chích ngón tay bắt khai, treo người lên đốt cháy như con cá lóc … (19)
<br />Một chứng nhân khác, Nguyễn Đình Khuê, cũng người huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, từng là nạn nhân của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh từ lúc 3, 4 tuổi và là nạn nhân của Cải Cách Ruộng Đất vào hơn hai thập kỷ sau đã kể lại về cách thức chuẩn bị cho các vụ đấu tố:
<br />– Cha con tôi là nạn nhân. Trước khi tiến hành việc cải cách ruộng đất, họ cho cán bộ về làng, thi hành chính sách “tam cùng” với nông dân: cùng ăn, cùng ở, cùng làm. Họ luyện tập cho nông dân có tinh thần chống địa chủ, bắt cán bộ ngủ cùng giường với nông dân…
<br />– Cách thức tố khổ địa chủ thế nào?
<br />– Họ bắt nông dân học tập và thường bịa ra … Anh nông dân bịa ra và nói cho hắn xem có đủ hay chưa. Tập luyện công phu như vậy cả năm rồi mới bắt đầu… Tôi không hiểu tình trạng trong làng của ông bạn tôi (tức Phạm Văn Trì) như thế nào, nhưng trong năm đó trong làng tôi, trong xóm tôi, nông dân họp đêm, họp tới 2, 3 giờ sáng. Học tập xong rồi mới bắt đầu thực hành…
<br />– Số người bị đấu tố bị giết là bao nhiêu?
<br />– Số người trong làng tôi, có mình cụ tôi. Ông cụ tôi bị giam trên núi mấy tháng thì chết. Tôi không được phép đi đâu hết nên không biết rõ số người bị đấu tố chết là bao nhiêu. (20)
<br />Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên kể lại:
<br />“Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa... người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng...
<br />Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. “Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm”, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi cho đến khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống. (....)
<br />Người ta cắm gai vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại cắm cái gai thêm một chút, làm cho cô ta rú lên vì đau, quằn quại trong giây trói.
<br />Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình – những đứa trẻ này chắc chắn lớn lên với trái tim không phải của giống người...” (21)
<br />Nhà văn nữ Dương Thu Hương cũng không quên cảnh tượng đã xẩy ra khi mới sáu, bảy tuổi và ghi lại trong tác phẩm Những Thiên Đường Mù (22) dưới hình thức tự thuật của nhân vật trong tác phẩm:
<br />“Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình, đầu gục xuống, hai tay vòng trước ngực. Trước mặt hai người là dân làng đốt đuốc ngồi. Họ có nhiệm vụ lắng nghe những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả đảo địa chủ”, họ có nhiệm vụ giơ tay lên hô thật to: “Đả đảo! Đả đảo!” ....
<br />... Bên tay trái bà nội tôi và cô tôi, những người khác quỳ gối chờ tới lượt họ. Cứ mỗi lần tiếng hô “Đả đảo” cất lên họ lại run bần bật. Chỉ có cô Tâm không hề run rẩy...
<br />... Cậu nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, đinh tai nhức óc. Rồi tiếng hô uy hiếp vọng vào:
<br />– Kiên quyết đánh đổ địa chủ Nguyễn Thị Tâm
<br />– Kiên quyết đánh đổ...
<br />Cậu Chính nhìn bố tôi hất hàm:
<br />– Nghe rõ chưa?
<br />Bố tôi không trả lời. Cậu quát:
<br />– Đội hỏi có trả lời không?
<br />Mặt bố tôi tái xanh, mồ hôi vã đầy hai thái dương nhưng vẫn im lặng. Lúc ấy cô Tâm bước lên:
<br />– Bẩm thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận, dù đội không ra lệnh chúng con cũng không dám chơi trèo.
<br />Cậu Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy đội cải cách là Thượng Đế, là Trời....”
<br />Tài liệu giáo dục chính thức Tiến trình lịch sử Việt Nam cho biết Cải Cách Ruộng Đất đã giúp 2 triệu hộ nông dân nghèo có ruộng tức liên can tới trên 2 triệu hộ. Nếu chỉ tính mỗi hộ trung bình có 4 người thì Cải Cách Ruộng Đất trong 3 năm liên can tới 8 triệu người và theo chỉ thị Đảng và Nhà Nước, chỉ tiêu số người bắt buộc phải đưa ra đấu tố là 5% tức đã lên tới 400 ngàn người. Con số này gần ngang với con số ước lượng mà Tổng Thống Mỹ Nixon nêu ra là khoảng nửa triệu.
<br />Cũng theo con số chính thức do báo chí Cộng Sản Việt Nam công bố thì trong 14,908 nạn nhân đã có 10.976 người bị tố oan, thậm chí bị đánh chết tức là số nạn nhân bị hại oan lên tới hơn 70 phần trăm.
<br />Ngay với vấn đề thế nào là oan, thế nào là ưng đã cần phải nhìn lại, trong khi ngoài số nạn nhân bị trực tiếp đưa ra đấu tố, chính sách cô lập còn hành hạ hàng triệu thân nhân của những kẻ này bằng cách bao vây, xua đuổi, tước đoạt mọi phương tiện cư trú, sinh sống, thậm chí chặn hết mọi nguồn tiếp tế thực phẩm để phải chết đói rét nơi bờ bụi… Số nạn nhân này không ai kê khai nổi và chắc chắn không thu hẹp trong giới hạn vài ba chục ngàn như một số tác giả ngoại quốc đã ước đoán.
<br />Nhưng số lượng nạn nhân bị ngược đãi và tàn sát man rợ trong Cải Cách Ruộng Đất là bao nhiêu không nghiêm trọng bằng sự tiêu diệt mọi tình cảm thiêng liêng cao cả nơi con tim của người dân Việt Nam.
<br />Để củng cố uy quyền của mình, Đảng đã cố thực hiện qua Cải Cách Ruộng Đất cái khẩu hiệu “thà giết lầm mười người còn hơn để cho một kẻ địch sống sót” bằng cách biến người dân thành một bày dã thú sẵn sàng dày xéo lên tương quan vợ chồng, cha con, mẹ con, huyết mạch, xóm giềng… Nỗ lực này của Đảng đã dẫn đến cái cảnh mà Dương Thu Hương ghi lại trong một bài viết vào năm 2002 “trong lịch sử “bốn ngàn năm”... triều đình Cộng Sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dậy con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm, dậy con trai chỉ vào mặt bố “đả đảo thằng bóc lột”, dậy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dầy xéo mồ mả của nhau... vào những năm 53-55 (trong CCRĐ). Tất cả những ai chưa hoàn toàn quên lãng, hẳn hiểu rõ điều đó. Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế với tha nhân....”
<br />Trong Đêm Giữa Ban Ngày, trang 221, Vũ Thư Hiên đã ghi rõ “Cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải Trường Chinh. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.” Mặc dù cả Vũ Thư Hiên lẫn thân phụ ông đều cố nghĩ tốt cho Hồ Chí Minh, vì những liên hệ cũ từng có.
<br />Đầu năm 1956, khi tâm trạng phẫn uất tràn lan ở nhiều nơi thậm chí đã có những cuộc nổi dậy của dân chúng như ở Quỳnh Lưu, Ba Làng và thái độ chống đối của nhiều phần tử từng nhiệt tình theo đảng trong kháng chiến chống Pháp, nhất là ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa chống Cộng Sản tại Hungary, Đảng và Nhà Nước ra lệnh ngưng tiến hành đợt 5 Cải Cách Ruộng Đất với lý do phát hiện nhiều khuyết điểm.
<br />Có thể nói tới lúc này cái biện pháp cơ bản để củng cố uy quyền của Đảng là Cải Cách Ruộng Đất đã đạt trọn mục tiêu đề ra trong khi mô thức hợp tác hóa nông nghiệp đã được tiến hành tại 3653 xã trong tổng số 5000 xã tức gần khắp miền Bắc.
<br />Hơn nữa, sửa sai không phải là từ bỏ chính sách Cải Cách Ruộng Đất mà là bước tiếp nối cần thiết để củng cố thành quả đã thu hoạch suốt ba năm tiến hành Cải Cách Ruộng Đất, vì chỉ sửa sai những cách thức thi hành đã được thực hiện trong quá khứ tức là chỉ cần bằng những lời lẽ ngọt ngào tỏ ý tiếc về những việc đã rồi.
<br />Cách thức sửa sai được Thành Tín ghi lại như sau:
<br />“Sau nghị quyết sửa sai, lại thành lập những đoàn cán bộ sửa sai, công bố cả một loạt tài liệu quy định các bước sửa sai, phát hành rộng rãi những văn kiện có tính pháp luật về sửa sai… Cuộc sửa sai được tiến hành ráo riết, mỗi nơi là chừng 4 tháng, có nơi hơn 6 tháng.
<br />Các bước sửa sai đi cùng với củng cố tổ chức Đảng và Chính Quyền cơ sở. Những người bị giam giữ oan ức được trả lại tự do, sau những buổi học thanh minh và xin lỗi theo nội dung: Đảng không cố tình mà vô tình làm sai do không kiểm tra cấp dưới; đảng rất đau xót nhận sai lầm; đảng xin lỗi mỗi đồng chí, đồng bào khôi phục danh dự và quyền lợi của các đồng chí, đồng bào.
<br />Trong cơn khó khăn này, đảng mong mỗi đồng chí sát cánh cùng đảng sửa sai đến nơi đến chốn mà đóng góp lớn nhất của đồng chí là thông cảm với đảng, cùng đảng sửa sai và ổn định tình hình, không gây thêm bất kỳ khó khăn nào cho đảng…
<br />Còn số người chết oan?
<br />Những gia đình này được cán bộ cấp huyện và chủ tịch xã đến thăm viếng, nhận lỗi và an ủi. Giấy minh oan được mang đến tận nơi, với những chứng nhận phục hồi đảng tịch (nếu là đảng viên), trả lại huân chương, bằng khen, còn được tặng thêm ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh có đóng dấu của tỉnh…
<br />Ngày 29-10-1956 tại sân vận động Hàng Đẫy, đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đứng ra nhận tội, xin lỗi, đưa ra phương án sửa sai khẩn cấp …Tại cuộc họp lớn này, người ta đẩy cụ Bùi Kỷ, một nhân sĩ trong Mặt Trận Tổ Quốc ra đọc lời khai mạc.
<br />Sau đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp lên tiếng thuyết phục. Cái lý sự để thuyết phục là ở mặt trận, nhất là mặt trận Điện Biên Phủ, chiến sĩ ta còn lấy thân chèn pháo bất kể sinh mạng, hàng ngàn chiến sĩ bỏ mình thì việc tổn thất trong Cải Cách Ruộng Đất tuy là đáng tiếc nhưng cũng là đóng góp cho cách mạng tiến lên. Ít lâu sau, báo Quân Đội Nhân Dân đưa ra trong xã luận, chỉ rõ “chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng thêm vĩ đại, đảng ta càng thêm vĩ đại”. (23)
<br />Để tỏ ra muốn thực sự sửa sai, Trường Chinh không còn giữ chức Tổng Bí Thư Đảng tuy nhiên được chuyển qua làm Chủ Tịch Quốc Hội và Hoàng Quốc Việt bị loại khỏi bộ chính trị, Hồ Viết Thắng, Nguyễn Đức Tâm bị đưa ra khỏi ủy ban trung ương trong khi cán bộ cải cách ruộng đất vẫn tiếp tục là cán bộ sau một thời gian họp hành kiểm điểm những việc đã qua.
<br />Sửa sai đã kết thúc tốt đẹp vì tình hình miền Bắc hoàn toàn thuận lợi cho việc cai trị của Đảng, nhất là khi dẹp xong các phần tử văn nghệ bất mãn thuộc các nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm.
<br />Tuy vậy, không phải những lời chê trách hoàn toàn tắt lịm. Theo ghi nhận của sử gia Pháp Gerard Tongas (24) có mặt tại Hà Nội lúc đó thì trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, nhất là sau các vụ đàn áp ở Ba Làng, Quỳnh Lưu và nhân dân Budapest, giới trẻ Hà Nội hết sức xôn xao, đã có mưu tính biểu tình chống đối. Tuy việc không thành, nhưng sự ngưỡng mộ đối với Hồ Chí Minh sút giảm rõ rệt vì nhiều người cho rằng trách nhiệm lớn nhất trong Cải Cách Ruộng Đất do Hồ Chí Minh phải gánh chịu. Do đó, việc trút lỗi cho thuộc cấp làm sai đã được bổ sung thêm bằng một lập luận khác: Hồ Chí Minh đã bị cả Liên Xô lẫn Trung Quốc tạo áp lực nặng nề, bắt buộc phải Cải Cách Ruộng Đất.
<br />Những người đã rời bỏ hàng ngũ Cộng Sản như Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín đều chưa rũ hết ảnh hưởng của luận điệu này, dù cả hai đều cho rằng Hồ Chí Minh phải gánh chịu phần lớn trách nhiệm. Về áp lực của Staline, Thành Tín thuật lại:
<br />“Đầu năm 1950…theo kể, Staline trong cuộc gặp riêng ông Hồ Chí Minh trong điện Kremlin…đi thẳng vào vấn đề, chất vấn ông Hồ 2 điểm: vì sao giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương? Vì sao chưa tiến hành cải cách ruộng đất?
<br />Ông Hồ đã trình bày với Staline là việc giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là Đảng lùi vào bí mật, với một bộ mặt giả công khai là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác. Hai là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rất gay gắt nên cải cách ruộng đất phải chậm lại và đã làm cuộc vận động giảm tô, giảm tức. Staline nghe, và, với bản chất thô bạo vốn có, chắc chắn đã cao giọng ra chỉ thị phải sớm đưa đảng Cộng Sản ra công khai…; chính trong kháng chiến gay gắt lại cần làm cải cách ruộng đất để huy động tinh thần và lực lượng vật chất của nông dân vào cuộc chiến đấu, cần nhớ đấu tranh giai cấp và liên minh công nông là hai nguyên lý cơ bản của cách mạng vô sản…
<br />Ông Hồ trở về. Thế là Đảng Cộng Sản Việt Nam mở đại hội đảng lần thứ 2 vào tháng 12-1951 ở Việt Bắc, đảng ra công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam …
<br />Còn cải cách ruộng đất? Cần thấy rõ là ông Hồ vẫn cố trì hoãn cải cách ruộng đất sau khi ở Moscou về. Cuộc kháng chiến rất khẩn trương, quyết liệt. Staline ở xa… (25)
<br />Tháng 3-1950, Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa trở về lo ngay việc đưa Đảng Lao Động Việt Nam ra công khai vào tháng 12-1951 và mấy tháng sau, năm 1952, đã khởi sự các đợt công tác thí nghiệm cải cách ruộng đất thì không thể có chuyện cố tình trì hoãn.
<br />Nguyễn Minh Cần cũng nêu áp lực của Staline nhưng không theo cách nhìn của Bùi Tín mà nhìn qua hệ thống tương quan trong khối Cộng Sản đặt đảng Cộng Sản tại các nước vào thế phải tuyệt đối vâng lệnh Đệ Tam Quốc Tế.
<br />Ngoài ra, theo Nguyễn Minh Cần, chính Hồ Chí Minh cũng luôn tín phục các lãnh tụ Staline, Mao Trạch Đông. Nguyễn Minh Cần kể lại trường hợp đích thân nghe rõ lời của Hồ Chí Minh vào dịp dự hội nghị trung ương ở chiến khu Việt Bắc. Lúc đó Hồ Chí Minh đã nhắc đến Staline, Mao Trạch Đông và nhấn mạnh với các đại biểu trong hội nghị: "Các cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên Đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi (chúng tôi được biết hồi ấy ông vừa đi Moskva về), các đồng chí đã đồng ý. Các cô, các chú nên biết rằng: “ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.” (26)
<br />Dù muốn hay không, Hồ Chí Minh vẫn là người ký các sắc lệnh 149-SL, 151-SL vào tháng 4-1953 và sau đó ký sắc lệnh ban hành luật Cải Cách Ruộng Đất. Cũng thế, Hồ Chí Minh đã trực tiếp bổ nhiệm Trường Chinh và nhóm Hoàng Quốc Việt cầm đầu ban chỉ đạo Cải Cách Ruộng Đất.
<br />Các qui định về luật lệ cũng như người thi hành đều do Hồ Chí Minh sắp đặt và đây là những thứ đã đưa đến cái chết tàn khốc của cả nửa triệu người dân vô tội, đã phá hủy toàn bộ khuôn thước tinh thần truyền thống dân tộc.
<br />Trước sự việc Hồ Chí Minh im lặng bỏ mặc cho bà Nguyễn Thị Năm bị đàn em theo lệnh cố vấn Trung Cộng lôi ra xử bắn, Thành Tín đã viết: “Tôi nghĩ việc này có rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, ông Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Đảng, ông vẫn phải chịu phần trách nhiệm. Huống gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì còn ai có thể can thiệp? Ông đã để mặc cho nước của ông, đảng của ông bị một số kẻ nước ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ nhiệm vị trí, trách nhiệm của mình”. (27)
<br />Ý kiến của Thành Tín có thể dành chung cho toàn bộ chính sách Cải Cách Ruộng Đất. Dù cán bộ, đảng viên biện giải cách nào thì Hồ Chí Minh cũng không thể chối bỏ trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, cần xét lại ý nghĩ cho rằng Hồ Chí Minh đã chịu sự chi phối bởi các áp lực bên ngoài hoặc một số người ngoại quốc kể cả do sự tín ngưỡng Staline, Mao Trạch Đông như Nguyễn Minh Cần đã nhắc.
<br />Trên thực tế, Cải Cách Ruộng Đất là một bước đi bắt buộc trong cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã trở thành tín đồ thuần thành. Như thế, Hồ Chí Minh chỉ thi hành nhiệm vụ của một tín đồ nên không thể đặt vào cảnh ngộ bị ép buộc bởi bất kỳ cá nhân nào.
<br />Tháo gỡ trách nhiệm không còn cần thiết và cũng là vấn đề bất khả, bởi tất cả đã được quyết định từ khi chọn đường. Hồ Chí Minh đã chọn con đường chủ nghĩa Cộng Sản với cuộc cách mạng giai cấp diễn tiến trường kỳ cho tới khi tận diệt giai cấp tư bản. Cải cách ruộng đất chỉ là một bước đi giai đoạn trên con đường dài thăm thẳm đó và là một bước đi không thể tránh.
<br />Cho nên, tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có biết các thảm cảnh đang diễn ra hay không để định mức trách nhiệm là việc làm ngây thơ không khác việc Vũ Đình Huỳnh già yếu bệnh hoạn vẫn cố chống gậy tới gặp Hồ Chí Minh để than: “Máu đồng bào đã đổ mà Bác ngồi yên được à”.
<br />Có phải chăng lời than này đã là một lý do để không lâu sau đó tới lượt Vũ Đình Huỳnh sau bao năm kề cận Hồ Chí Minh bị tống vào nhà tù để trở thành một trường hợp Nguyễn Thị Năm thứ hai?
<br />Nhìn lại những sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh và Cải Cách Ruộng Đất, vì thế, không phải để cố phân tích xem Hồ Chí Minh đã dính dấp ở mức độ nào.
<br />Nghi vấn duy nhất nổi lên từ các sự kiện này là chúng có xẩy ra không, nếu không có Hồ Chí Minh?
<br />
<br />CHÚ THÍCH
<br />CHƯƠNG 46
<br />_____________________________________
<br />(01) Đảng CSVN qua những biến động trong phong trào Cộng Sản quốc tế – Nguyễn Minh Cần. Xin xem chương liên hệ ở phần I.
<br />(02) Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam – Trần Văn Giàu, Tập III, Nxb TPHCM 1993.
<br />(03)-(10) Bác Hồ trên đất nước Lênin – Hồng Hà, Thanh Niên 2000, tr. 258. Xin xem chương liên hệ.
<br />(04)-(06) Việt Nam những sự kiện lịch sử – Dương Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr. 192
<br />(05) Lịch Sử Đảng CSVN (Bài giảng) – Nxb Đại Học Quốc Gia, HàNội 1999. tr. 32-36.
<br />(07)-(08) Hồ Chí Minh tuyển tập - Tập 2, Sự Thật, Hà Nội 1980, tr.152 & 154.
<br />(09) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch – Nxb Văn Học 2001, tr. 88
<br />(11)-(12)-(13)-(14) Mặt Thật – Thành Tín, Cali 1993, tr. 57, 37-38 & 36
<br />(15) Từ Thực Dân đến Cộng Sản – Hoàng Văn Chí, tr. 189
<br />(16) Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 267 , Hà Nội 30-4-1993, tr. 1-2
<br />(17) Việt Nam huyết lệ sử – Cao Thế Dung , Nxb Đồng Hương, Louisiana 1996, tr. 747-748
<br />(18) Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang Ngọc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr. 327
<br />(19)-(20) Hắc thư về chủ nghĩa Cộng Sản - Bản tiếng Việt của Hồ Văn Đồng, Hội Phát triển văn hóa Mỹ-Việt , Seattle 2002, T.II, tr. 1129-1130 – Phần phụ lục của người dịch.
<br />(21) Đêm giữa ban ngày– Vũ Thư Hiên, Nxb Văn Nghệ, Cali 1997, tr. 32.
<br />(22) Những thiên đường mù– Dương Thu Hương, Hà Nội 1990, tr. 17-29.
<br />(23)-(25)-(27) Mặt Thật – Thành Tín, Cali 1993, tr. 59-60, 67-68, 39
<br />(24) Tác giả chương 7 trong North Việt Nam Today – Xin xem chương 25
<br />(26) Xin xem chương Nguyễn Minh Cần.
<br />Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159068073453962022006-09-24T13:20:00.000+10:002006-09-24T13:27:32.230+10:00* Chương 47* HỒ CHÍ MINH và Mặt trận Việt MinhTrước hết, cần minh xác về khái niệm mặt trận. Thông thường 2 chữ này có nghĩa tiền tuyến, nơi đang xảy ra giao tranh bằng quân sự. Đó là nghĩa đen. Nhưng mặt trận cũng có nghĩa bóng, chẳng hạn khi nói mặt trận văn hóa, mặt trận ngoại giao... Ngoài ra, mặt trận còn có thể là một tổ chức đấu tranh tập hợp nhiều đoàn thể đảng phái nhằm tranh thủ một mục tiêu chính trị nào đó, không nhất thiết bằng võ lực. <br />Đó là những khái niệm thông thường, trước khi có cuộc chiến ý thức hệ do chủ trương đấu tranh giai cấp mang tính toàn cầu, toàn diện. Từ khi có cuộc chiến này với thuộc tính “toàn cầu, toàn diện”, mặt trận chỉ có một nghĩa – nghĩa đen. <br />Mặt trận ở đây chính là tiền tuyến, tại đó người cộng sản dùng những võ khí tinh thần hơn là vật chất. Trong chiến tranh toàn diện, mọi thứ đều có thể là võ khí thì mọi nơi đều có thể là tiền tuyến hay mặt trận. <br />Theo chiến lược sách lược liên minh Lênin, đặc biệt sách lược “mặt trận thống nhất” được Stalin áp dụng tại Trung Quốc giữa thập niên 20, mặt trận còn là một hình thức sách lược đấu tranh. Nó thay đổi tùy nơi, tùy lúc, tùy theo cao trào hay thoái trào cách mạng, (chữ của Stalin). <br />Trong trường hợp này, nó như chiếc áo mà đảng cộng sản chọn mặc cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Cũng theo sách lược liên minh Lênin, mặt trận còn mang ý nghĩa của bộ mặt ngoài che giấu thực chất phía trong. Mặt trận luôn được điều khiển bởi đảng cộng sản nằm làm nòng cốt ở bên trong nên cũng có thể bảo là một thứ mặt nạ của đảng cộng sản. Những tính chất này đều được thể hiện với Mặt trận Việt Minh.<br />Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 và cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953-1955 đánh dấu hai thời điểm quan trọng trong quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh thì Mặt Trận Việt Minh và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là những tổ chức gắn liền với sự nghiệp của Hồ Chí Minh, nhất là Mặt Trận Việt Minh do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 19 tháng 5 mà sau này ông nói là ngày sinh của ông. <br />Có thể coi hai tổ chức này như hai con thuyền đã giúp Hồ Chí Minh vượt qua sóng gió. Và, cũng như mọi con thuyền, cả hai tổ chức đều mang chung số phận bị dẹp bỏ sau khi đi tới bến bờ mong muốn để chỉ còn được sống lại vào những lúc cần xác định lý tưởng của Hồ Chí Minh. <br />Với rất nhiều người, Mặt Trận Việt Minh cũng như Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là những lực lượng qui tụ các phần tử yêu nước hình thành do yêu cầu giành độc lập hoặc chống ngoại xâm. Hồ Chí Minh là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh, là người hỗ trợ tích cực cho Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. <br />Cả hai tổ chức đều nhờ Hồ Chí Minh để thâu đoạt thắng lợi, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đối với đất nước. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh theo đuổi đã được kể là dựa trên nền tảng hình thành từ tính chất đáp ứng nguyện vọng dân tộc chính đáng của hai tổ chức trên. <br />Tương đồng và dị biệt giữa thực tế với nhận định được nêu trên ra sao?<br />Theo tài liệu của Cộng Sản Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh ra đời tại hang Pac Bó tỉnh Cao Bằng ngày 19-5-1941 theo sáng kiến của Hồ Chí Minh trong một phiên họp được gọi là Hội Nghị kỳ 8 Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hồ Chí Minh chủ tọa Hội Nghị với tư cách đại diện Đệ Tam Quốc Tế. Số người có mặt gồm Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và một đại biểu Bắc Kỳ, một đại biểu Trung Kỳ. (1) “Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc…Trong lúc này, khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật… nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãn kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.<br />Theo sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, hội nghị đã quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị…” (2)<br />Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945 ghi lại chi tiết hơn: “Phân tích tình hình thế giới, nghị quyết của Hội Nghị nhận định: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công… Hội Nghị tán thành nghị quyết của hai hội nghị Trung Ương trước đó về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược nhằm nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, ngày 19-5-1941, Hội Nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) thay cho Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Phản Đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận của mình. Các tổ chức của Việt Minh sẽ là các Hội Cứu Quốc. Hội Nghị quyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng mặt trận dân tộc” (3)<br />Những dòng ghi vắn gọn trên cho thấy rõ Mặt Trận Việt Minh không hề theo đuổi mục tiêu đấu tranh cho nguyện vọng dân tộc. <br />Sự ra đời của tổ chức chỉ nhắm khai thác tâm lý quần chúng để gây dựng lực lượng và củng cố vị thế của Đảng Cộng Sản tùy theo từng giai đoạn. <br />Những ngày trước đó, Đảng Cộng Sản nấp dưới chiêu bài Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Phản Đế Đông Dương thành lập tháng 11-1939, vì không thể công khai đấu tranh sau biến cố Xô Viết Nghệ Tĩnh. <br />Trước nữa, Đảng Cộng Sản đã lập Mặt Trận Phản Đế vào tháng 11-1930 và Mặt Trận Dân Chủ vào năm 1936. <br />Hình thức mặt trận nẩy sinh từ quan điểm chiến lược sách lược Lênin nhắm tập họp, liên minh với các lực lượng, kể cả thành phần thù địch nhưng cần khai thác trong thời gian trước mắt hay một thời khoảng nào đó. Vì thế, mặc dù coi mọi giai cấp đều là kẻ thù của giai cấp Vô Sản, Mặt Trận Việt Minh vẫn chuyển hướng chỉ đạo để hô hào liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị và nêu chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng mặt trận dân tộc. <br />Chuyển hướng và tạm gác chắc chắn chỉ là những việc mang tính giai đoạn chứ không phải hướng nhắm thực sự cuối cùng. Cho nên, Douglas Pike đã hết lời ca ngợi Hồ Chí Minh: “Thiên tài số một của Hồ là tổ chức… Hầu hết những thắng lợi chính trị của Hồ trong thời kỳ tiền Việt Minh là kết quả của tài tổ chức: tạo dựng, xử dụng và đưa ra ánh sáng một cách thuận lợi một chuỗi những tổ chức mặt trận thống nhất, cái sau bao giờ cũng cao hơn cái trước, mỗi cái đều tăng cường quyền lực của đảng, mở rộng thêm sự ủng hộ của cơ sở quần chúng và loại trừ đối lập (rivals). Kỹ thuật (loại trừ) này gồm có việc bao lấy tổ chức đối lập đưa nó vào trong một cộng đồng xã hội rộng lớn hơn như một phương cách làm lu mờ căn cước riêng của nó và như một màn mở đầu để chặt mất đầu, không còn lãnh tụ nên phải tan rã...” (4)<br />Không chỉ trong thời kỳ tiền Việt Minh mà các thời kỳ sau cũng mang cùng tính chất. Thực tế xã hội Việt Nam giai đoạn này cho thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam không thể thành công nếu cứ tiếp tục hô hào đấu tranh giai cấp và cải cách ruộng đất như những năm 1929-1930. Chính sách thực dân và thái độ tàn nhẫn của người Pháp đối với dân chúng đã tạo sự căm phẫn ngay nơi nhiều người Pháp. Andrée Viollis đã ghi lại không biết bao nhiêu cảnh sống uất nghẹn của người dân Việt Nam:<br />“Từ khi tôi đến Huế, vào mỗi sáng tôi thường bị đánh thức bởi giọng khàn gắt của những người còn say rượu, mắng bồi bếp “Đồ súc vật, mày có đến không?... Phải mất bao nhiêu thời giờ mới gọi được mày?Đến mau… sà-lù…Đôi khi tôi nghe thấy tiếng ghế đổ loảng xoảng, tiếng giầy dép quăng ném loạn xạ… <br />Một bà Pháp, đốc học trường Nữ ở Huế lái xe hơi, đụng té hai người nhà quê gánh rau vào thành phố. Họ bị thương nhẹ. Bà nọ đang tính bồi thường thì một viên chức nổi giận vì đám nhà quê dám hỗn xược đòi tiền một bà đầm. Y vừa đánh hai người kia vừa la lối: “Nếu tao mang súng theo thì tao giết tụi bay rồi. Cút đi! Đừng vác mặt đến đây nữa, nếu không sẽ biết tay tao”. Hai người đàn bà tội nghiệp mất cả gánh rau, mặt đầy máu, lấm lét bỏ trốn mà vẫn mừng đã thoát nạn”. (5)<br />Cảnh ngoài đường phố đó không đáng gì so với cảnh một nhà giam năm 1929-30 mà Andrée Viollis chứng kiến: “Tôi nhận ra hai hàng tù nhân, chân bị cùm, ngồi hay nằm sát chặt lấy nhau. Mỗi căn có 200 người. Tất cả đều nhìn chúng tôi bằng con mắt tuyệt vọng và sốt nóng vừa dơ bàn tay ra van nài… Mặt của họ nám đen, khô đét, má hóp, môi chảy ra nứt nẻ, cánh tay thì đầy mụn nhọt và vết thương. Hầu hết đều ghẻ hoặc bị chấy rận dày vò… Cả ngày người ta chỉ tháo cùm cho họ hai lần, mỗi lần mười phút để lo việc cần. Họ chỉ có quyền rửa mặt mỗi tuần một lần… Họ tiều tụy đến nỗi nhiều người không chống lại nổi bệnh kiết lị mà hầu hết đều bị. Mỗi sáng, người ta đến lấy những xác chết đem đi. Trung bình có hai hoặc ba người chết mỗi ngày trong một căn.” (6)<br />Andrée Viollis ghi lại một sự việc xảy ra tại nhà tù ngày 29-5-1931: “Hai tên Lê Dương Van Bargen và Layon lấy cưa xén tóc một phạm nhân để giỡn. Nghịch chán, Van Bargen rút súng lục bắn vào đùi phạm nhân rồi hất vào phòng giam. Một lúc sau, Van Bargen lại chĩa súng bắn xối xả vào các phạm nhân. Tất cả đều bị thương. Chúng chất các phạm nhân bị thương lên xe đưa đến một nơi vắng vẻ dùng súng lục bắn chết từng người, quăng xác vào bụi. Ra tòa, Van Bargen khai là chỉ bắt chước cấp trên thường chém đầu phạm nhân để giỡn chơi. Tên quan ba Doucin khai do nhà giam chật hẹp, số phạm nhân lại quá nhiều nên phải giết bớt đi”. (7)<br />Đó là cách đối phó với các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trước và sau thời gian xẩy ra cuộc khởi nghĩa Yên Báy.<br />Những tên cai tù giết người được tòa tuyên bố trắng án trong khi một số tù nhân bị tử hình. Một chứng nhân người Pháp khác là Louis Roubaud (8) đã ghi lại phản ứng của nhiều người tù trước tòa. <br />Trong phiên xử ngày 26-5-1930 tại Phú Thọ, Nguyễn Văn Toại không chờ Tòa lên tiếng đã nói: “Tôi nhận hết!” Tòa hỏi: “Anh có phải đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng không?” Toại đáp: “Tôi chỉ là một người Việt Nam. Tôi thương xót đồng bào tôi bị cực khổ nên tôi tham gia tấn công đồn binh Pháp”. <br />Nguyễn Văn Toại mới 33 tuổi và là một trong 5 người bị chém đầu tại Phú Thọ ngày 22-11-1930. <br />Cùng trong phiên xử đó, một người khác dõng dạc nói trước Tòa: “Tôi không có chân trong hội kín hội hở nào hết. Tôi là người Việt Nam, tôi có bổn phận phải đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi để khôi phục nền độc lập cho Tổ Quốc”. <br />Ngày 23-6-1931, trước khi bị đưa ra hành quyết tại Hỏa Lò, Lê Hữu Cảnh đã tươi cười nói với linh mục Dromet: “Chết vì tổ quốc, lên Thiên Đường nhanh lắm”.<br />Nhượng Tống ghi lại hình ảnh cuối cùng của Lê Hữu Cảnh: “Người ta trông thấy anh hớn hở khi hô xong câu “Việt Nam vạn tuế!” rồi đâm đầu vào máy chém” (9)<br />Cuộc sống tủi nhục đọa đày dưới ách thống trị tàn khốc đã khiến toàn cõi Việt Nam là một lò lửa hận thù ngùn ngụt đối với thực dân Pháp đúng như L. Bonnafont đã viết trong Trente ans de Tonkin: “Hòn Gay không đem lại gì cho chúng ta, ngoại trừ mối căm thù của hàng ngàn cu-li” (10). <br />Nguyện vọng giành độc lập cho Tổ Quốc là nguyện vọng chung của hết thẩy mọi người vì đó là lối thoát duy nhất cho cảnh sống đói rét dưới roi vọt. Đó cũng là lý do khiến Đảng Cộng Sản thấy cần vận dụng chiêu bài giải phóng dân tộc và tạm thời che kín chủ trương đấu tranh giai cấp. <br />Ngay Đào Duy Anh khi mới tham gia đấu tranh trong đảng Tân Việt cũng phát biểu: “Không thể căn cứ vào một giai cấp nào để lấy đảng viên được, tầng lớp thợ thuyền còn quá ít ỏi và chưa có đường lối rõ rệt, trong khi tầng lớp nông dân cũng chưa thuần nhất và ít giác ngộ về đường lối” (11)<br />Trên thực tế từ ngày 18-11-1930 Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương đã gửi chỉ thị tới các cấp ủy Đảng “khẳng định lại đường lối chiến lược và sách lược của Đảng trình bày trong Luận Cương, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của công tác xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất mà trong giai đoạn lịch sử này việc tổ chức Hội Phản Đế Đồng Minh là chủ trương đúng đắn và cấp thiết”. (12) <br />Như thế, 11 năm trước khi Mặt Trận Việt Minh ra đời, công tác xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất đã được minh thị là một công tác mang tầm chiến lược và sách lược của Đệ Tam Quốc Tế tức không phải sáng kiến của một cá nhân nào, kể cả Hồ Chí Minh. <br />Năm 1930, theo thẩm định tình hình, Đảng cần chiêu bài Phản Đế nên Mặt Trận Phản Đế Đồng Minh xuất hiện. <br />6 năm sau, sự thắng thế của Mặt Trận Bình Dân trên chính trường Pháp khiến chiêu bài Dân Chủ thích hợp hơn nên Phản Đế Đồng Minh được thay thế bằng Mặt Trận Dân Chủ. Rồi tình hình lại xoay chuyển khiến xuất hiện Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Phản Đế Đông Dương ngày 18-11-1939. <br />Sau đó, chiêu bài Phản Đế tỏ ra không cuốn hút bằng chiêu bài Độc Lập nên Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh ra đời. <br />Ưu điểm của sách lược vận dụng mặt trận không chỉ là tính hấp dẫn của những chiêu bài đối với quần chúng mà nằm ngay trong thái độ khác biệt về ý thức giữa những người đấu tranh không cộng sản và thuộc hàng ngũ cộng sản. <br />Người Cộng Sản được rèn giũa, nhắc nhở thường xuyên về bạn và thù, không lúc nào quên vấn đề chủ yếu trong liên minh là phải nắm vững thế chỉ đạo bằng mọi giá, kể cả vu cáo triệt hạ, ám toán tiêu diệt những kẻ gây trở ngại. <br />Trong khi đó, người không cộng sản bước vào mọi cuộc liên minh với sự tin cậy thiện chí hợp tác của bất kỳ ai, sẵn sàng chấp nhận bất kỳ vai trò nào miễn là có người cùng chia xẻ nhiệm vụ đấu tranh. <br />Cho nên, người Cộng Sản gần như không gặp khó khăn trong sự thực hiện các mưu đồ mà Douglas Pike đã mô tả là bao lấy tổ chức đối lập đưa vào một cộng đồng rộng lớn hơn làm lu mờ căn cước riêng của nó và chặt mất đầu, không còn lãnh tụ nên phải tan rã... <br />Với những người sôi sục nhiệt tâm chống thực dân để giành độc lập nhưng chưa từng tham gia tổ chức đấu tranh nào, mức thuận lợi càng lớn hơn cho Cộng Sản, nhất là sự hoàn toàn mờ mịt về chủ thuyết Cộng Sản. <br />Cho tới thập niên 1970, đại đa số dân chúng Việt Nam vẫn nghĩ về Cộng Sản như một tập thể chủ trương bạo động để bênh vực người nghèo khó, chống lại cường quyền áp chế và những kẻ giàu sang độc ác. <br />Khi đã vượt qua tâm trạng e dè với phương pháp bạo động, không mấy ai còn băn khoăn tìm hiểu tổ chức mình sẽ tham gia là Cộng Sản hay không Cộng Sản. Ngay trong giới trí thức, thậm chí giữa những người đang hoạt động đảng phái, vẫn có luận điệu “Danh xưng tổ chức là gì không quan trọng, chỉ cần chung sức đánh Tây thôi. Cộng Sản hay không cộng sản cũng là người Việt Nam đang sống trong nô lệ và mong mỏi độc lập như mình.” <br />Ý kiến về đảng phái của nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng được Võ Nguyên Giáp ghi lại chính là bằng chứng cụ thể cho cách suy nghĩ về quốc gia và cộng sản đương thời: “Tới Hà Nội gặp chúng tôi, cụ Huỳnh tỏ ý lo lắng về cái mà cụ gọi là tình hình “đảng tranh” hiện thời. Theo ý cụ thì Việt Minh, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh đều tranh đấu cho dân, các vị lãnh đạo đều là những người yêu nước đã bôn ba hải ngọai, giờ phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên, phải đoàn kết lại, không nên xung đột vì chuyện đảng phái”. (13)<br />Hơn nữa, người trong nước đã có thói quen trông chờ sự tiếp sức từ bên ngoài kể từ khi phong trào Đông Du được Phan Bội Châu phát động. Tin tức đấu tranh từ Trung Hoa, Thái Lan luôn là nguồn hứng khởi và đề tài bàn thảo. <br />Sau Cách Mạng Tân Hợi 1911 Trung Hoa, chính Phan Bội Châu đã ngả theo xu hướng canh tân, chủ trương dân chủ hóa, hô hào làm cách mạng xã hội để hình thành tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội. Lớp trí thức trẻ trong nước cũng choáng ngợp trước nhiều nguồn ánh sáng tư tưởng Tây Phương và Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học đã tiếp nối Phan Bội Châu không ngừng hô hào làm cách mạng xã hội. Điểm quan trọng là không có sự phân biệt rạch ròi về cách mạng xã hội theo tinh thần Tam Dân Chủ Nghĩa của Cách Mạng Tân Hợi Trung Hoa mà Phan Bội Châu đề xướng với cách mạng xã hội theo tinh thần giai cấp đấu tranh của Đệ Tam Quốc Tế. <br />Toàn bộ khung cảnh thực tế đấu tranh chính trị tại Việt Nam giữa người cộng sản với người không cộng sản là một thiểu số kín đáo kiên trì theo đuổi mưu đồ thâu tóm trọn quyền lực và một tập thể ngay tình, chân thực luôn sẵn sàng chấp nhận bất kỳ ai tuyên bố đòi đập lập đều là bạn. <br />Kết quả, sách lược dân tộc thống nhất đã làm tan rã các tổ chức không cộng sản, thu hút thêm người về cho đảng Cộng Sản.<br />Trên thực tế, qua các cửa ngõ không cộng sản như Tâm Tâm Xã, Phục Việt, Tân Việt, Tổng Hội Sinh Viên… những người trẻ như Vương Thúc Oánh, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Đào Duy Anh… đã bị cuốn hút để trở thành đảng viên nòng cốt của Cộng Sản. Sau một quá trình huấn luyện, nhất là sau khi được chọn lọc gửi đi thụ huấn tại Mạc Tư Khoa, những người trên đều thay đổi ý niệm về đường hướng đấu tranh. <br />Lúc này, họ đã thuộc về một lực lượng mới với một sứ mạng mới là giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới. Cuộc chiến mà họ bước vào do lòng yêu nước thúc đẩy chỉ còn là một bộ phận nhỏ trong cuộc chiến mà họ vừa giác ngộ. Họ ý thức rõ rệt điều đó và còn được chỉ dẫn kỹ lưỡng để khai thác những cuộc chiến cục bộ như thế nào để hoàn thành sứ mạng mới mà họ đã chọn lựa. <br />Những người không cộng sản chỉ nhìn thấy Mặt Trận là một hình thức kết hợp mọi người tạo thành lực lượng đấu tranh đánh đuổi kẻ thù thực dân Pháp giành lại nền độc lập dân tộc và những người cùng tham gia Mặt Trận đều là đồng chí. <br />Khi bước vào Mặt Trận, những phần tử hoặc tổ chức không cộng sản đều tự đồng hóa với Mặt Trận theo tinh thần hòa nhập để chung lo công việc. Mọi nhiệm vụ do Mặt Trận đề ra là nhiệm vụ của mình và mục tiêu Mặt Trận nhắm tới là mục tiêu phụng sự của mình.<br /> Nhưng người Cộng Sản đã được chỉ thị rõ ràng để không quên rằng họ chỉ tạm thời gác lại chủ trương giai cấp đấu tranh và Mặt Trận là một vỏ bọc cần thiết trong giai đoạn. Họ là người thuộc về Đảng, tức cái nhân của Mặt Trận. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là phát triển và củng cố cái nhân chứ không xả thân cho mục tiêu của cái vỏ. <br />Chính vì thế, họ phải nắm quyền chủ động trong Mặt Trận để giữ vững các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và củng cố Đảng. Mặt Trận chỉ là vỏ bọc nên cũng như chiếc áo. Mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh cần có những chiếc áo khác nhau nên nắm vững quyền chủ động có nghĩa là tránh bị lệ thuộc chiếc áo để luôn luôn ứng phó kịp thời với mọi tình huống hầu bảo vệ hữu hiệu cho cái nhân. <br />Cộng Sản không đồng hóa với Mặt Trận mà vận dụng Mặt Trận như một công cụ phục vụ cho mục đích của mình. Tương quan giữa Đảng Cộng Sản với Mặt Trận là tương quan giữa người chỉ huy với kẻ thừa hành.<br />Thêm nữa, Mặt Trận không đơn thuần là một danh xưng hay một hình thức tổ chức mà chính là một trận tuyến. <br />Đối với Cộng Sản, những người cùng tham gia Mặt Trận chưa hề là đồng chí mà còn có thể là kẻ thù. Cộng Sản mời gọi những người này tham dự liên minh để lợi dụng, chinh phục hoặc giăng bẫy thanh toán. Liên minh trong quan điểm chiến lược sách lược Cộng Sản là một cuộc chiến dưới hình thức sống chung hòa bình trong lúc kẻ thù bị ru ngủ bởi hình thức đó. <br />Đấu tranh giai cấp là cuộc chiến liên tục và trường kỳ dưới mọi hình thức để giành mục tiêu thiết lập nền chuyên chính vô sản trên toàn thế giới nên không thể ngưng diễn tiến một ngày một giờ nào và ở bất kỳ nơi đâu. Mặt Trận là trận tuyến trên đó cuộc chiến liên tục diễn ra với những kẻ thù tuy đang là đồng minh nhưng không theo cộng sản. <br /><br />Ý nghĩa chứa đựng trong danh từ Mặt Trận đối với Cộng Sản là ý nghĩa này chứ không phải ý nghĩa theo cách hiểu của người không cộng sản vẫn được trưng dẫn để thuyết phục các đối tượng quần chúng. <br /><br />Hơn 40 năm trước đây, trong cuốn Sách lược xâm lăng của cộng sản, chúng tôi đã có dịp phân tích 4 loại sách lược thường được Cộng Sản dùng để thôn tính các nước là mặt trận, liên hiệp, trung lập, hòa bình. <br />Hòa bình là một vũ khí, một chiến lược, một mặt trận đánh vào đối phương, để chia rẽ, phân hóa, làm cho đối phương mất hết ý chí chiến đấu, trong khi Cộng Sản tiếp tục tấn công. <br />Tác động của các phong trào phản chiến tại miền Nam Việt Nam và tại Mỹ trước đây là minh chứng cụ thể về sự vận dụng vũ khí hòa bình. <br />Tưởng cũng nên nhắc lại, ngay trong lúc nêu chủ trương sống chung hòa bình, lãnh tụ Liên Xô Nikita Khrutshchev vẫn tuyên bố “muốn sống đến ngày được thấy ngọn cờ đỏ bay phất phới khắp năm châu”. <br />Cũng chính Khrutshchev đã ra lệnh đàn áp phong trào đấu tranh tách khỏi vòng kiềm chế Liên Xô của nhân dân Ba Lan (vụ Poznan) và nhân dân Hung Gia Lợi (vụ Budapest). Lãnh tụ Cộng Sản Trung Cộng Chu Ân Lai nêu năm nguyên tắc sống chung hòa bình tại hội nghị Băng Đung 1955 không ngoài mục đích ru ngủ và bó tay các quốc gia Ai Cập, Nam Dương, Ấn Độ … đồng thời phân hóa đối thủ, giảm thiểu lực lượng chống Cộng trên thế giới trong khi phe Cộng Sản không lơi tay súng. <br />Liên hiệp là mượn danh nghĩa sống chung để xâm nhập, lũng đoạn, xuyên tạc, ám toán nhắm đánh phá, tiêu diệt người bất đồng chính kiến. <br />Các đoàn thể từng tham gia chính phủ liên hiệp Việt Minh trong năm 1946 sẽ không bao giờ quên nổi bài học đắng cay, thấm thía về liên hiệp. Hồ Chí Minh nhân danh “đoàn kết” lập chính phủ liên hiệp để triệt tiêu lý do chống đối của các phe đối lập đồng thời trình diễn bộ mặt “hòa hợp dân tộc” trước các cường quốc Tây Phương. Nhưng cùng lúc đó, các đoàn thể chấp nhận liên hiệp với Cộng Sản Việt Nam đã lập tức trở thành những miếng mồi ngon vì lâm cảnh ngộ ngồi chung với bầy sói. <br />Trung lập là cô lập đối phương. Bài học về hiệp ước Genève 1962 trung lập hóa Ai Lao là bài học tiêu biểu về trung lập. Ai Lao trung lập có nghĩa là Ai Lao bị cô lập, và miền Nam Việt Nam bị cô lập theo. Bởi, các nước không được quyền giúp phe quốc gia Ai Lao trong khi Cộng Sản Việt Nam không ngừng hỗ trợ cộng sản Ai Lao tấn công phe quốc gia. <br />Cộng Sản còn dùng Ai Lao làm bàn đạp xâm nhập đánh phá miền Nam Việt Nam. Đường mòn Hồ Chí Minh xuyên qua lãnh thổ Ai Lao “trung lập” trở thành con đường bất khả xâm phạm của Cộng Sản. Các nước ký kết bắt buộc phải tôn trọng chữ ký của mình trong khi Cộng Sản coi mọi phương tiện đều tốt. Nói dối, vi phạm hiệp ước… là điều cần làm vì lợi ích của đấu tranh giai cấp – cứu cánh biện minh cho phương tiện.<br />Mặt trận nhằm tập họp vào hàng ngũ do Cộng Sản lãnh đạo những thành phần yêu nước đang đấu tranh giành độc lập dân tộc để lợi dụng, khai thác cho mục tiêu tận diệt mọi giai cấp chống lại giai cấp vô sản mà đảng Cộng Sản tự ban cho mình vai trò đại diện với tư cách đội tiền phong. <br />Với quan niệm chiến tranh thường trực trong giai cấp đấu tranh và chiến lược toàn cầu của Cộng Sản nhắm đánh đổ tư bản, mặt trận dù xưng danh là Độc Lập Đồng Minh cũng không bao giờ thực sự đấu tranh vì Độc Lập dân tộc mà chỉ là sách lược giai đoạn vận dụng chiêu bài Độc Lập dân tộc để giành quyền chuyên chính vô sản. <br />Danh nghĩa mặt trận sẽ giúp Cộng Sản thu hút đông đảo quần chúng vào vòng chi phối đồng thời có thể buộc hết thẩy khép mình dưới kỷ luật sắt như binh sĩ trong một trại quân. <br />Ý đồ vận dụng Mặt Trận Việt Minh để tập họp mọi thành phần quần chúng, biến thành lực lượng đấu tranh lâu dài cho mục tiêu chuyên chính vô sản còn biểu hiện qua các nghị quyết và chỉ thị đưa ra trong Hội Nghị kỳ 8 Trung Ương Đảng. Các chỉ thị này đã nêu rõ nhiệm vụ của Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc là tổ chức và phụ trách Đội Thiếu Niên Tiền Phong và Hội Nhi Đồng Cứu Vong để tập họp thế hệ nhỏ vào mục đích dự bị cho cuộc đấu tranh. Chỉ thị này còn được biến thành một điều khoản trong điều lệ của Hội Nhi Đồng Cứu Vong (14).<br />Tóm lại, nhìn từ khía cạnh chiến lược sách lược Lênin và qua các Nghị Quyết của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, dù Mặt Trận Việt Minh qui tụ rộng rãi các thành phần dân chúng và có mặt nhiều phần tử yêu nước vẫn không thể xác định là một lực lượng đấu tranh yêu nước hình thành do yêu cầu giành độc lập của dân tộc Việt Nam. <br />Do ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, Douglas Pike coi sách lược mặt trận dân tộc là biểu hiện một thiên tài về tổ chức đấu tranh. Chỉ giới hạn trong phạm vi hành động thì lời khen của Douglas có thể có cơ sở, ngoài ra, sẽ là một lời ca tụng mù quáng. <br />Vì sách lược này không phải phát kiến của Hồ Chí Minh mà được đề ra bởi Lênin. Hồ Chí Minh chỉ là người thi hành chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế và tính chất này đã là nền tảng để Duncanson đánh giá “phong trào cộng sản ở Việt Nam khác với các phong trào chính trị về một phương diện quan trọng: nó là một phong trào khuynh đảo phát động từ bên ngoài do chính phủ Liên Xô dùng làm khí cụ quấy phá Pháp.” <br />Do đó, Duncanson cho rằng đảng Cộng Sản Đông Dương không bao giờ là một lực lượng đấu tranh yêu nước mà trái lại, còn gần như một lực lượng chống-lại-những-người-yêu-nước-chống-thực-dân – almost anti-anti-colonial. <br />Mặt Trận Việt Minh do Đảng Cộng Sản Đông Dương thành lập và nắm quyền chỉ đạo nên kết luận của Duncanson cũng là lời bác bỏ sự xác định lý tưởng dân tộc của Hồ Chí Minh dựa trên chủ trương được quảng bá của Mặt Trận này.<br />Đặt vấn đề vào thực tế, chỉ có thể coi Mặt Trận Việt Minh là phát kiến của Hồ Chí Minh trong giới hạn ý đồ vận dụng danh xưng Việt Minh. <br />Vì từ 1935, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội với tên gọi tắt Việt Minh đã được Hồ Học Lãm thành lập tại Nam Kinh. Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, Hoàng Văn Hoan ghi rõ nhiều chi tiết về tổ chức này của những người quốc gia yêu nước tại Hoa Nam. <br />Theo Hoàng Văn Hoan, chính Hồ Chí Minh cùng nhiều đồng chí trong số có Hoàng Văn Hoan đã tham gia Việt Minh để hoạt động. <br />Hoàng Văn Hoan viết: “Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh nghĩa gì để hoạt động? Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào đó mà hoạt động. Chủ trương đó phát xuất từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học Lãm lập ra và đăng ký ở Nam Kinh; xuất phát từ chỗ ông Hồ Học Lãm không phải là Cộng Sản mà lại thực lòng ủng hộ chúng ta...” (15)<br />Trong Danh nhân Hồ Chí Minh (16), Trần Đình Huỳnh cũng cho biết từ tháng 9-1940, Hồ Chí Minh bắt liên lạc với Hồ Học Lãm và được Hồ Học Lãm cho biết thời cơ về nước đã tới. Vì thế, ngày 6-1-1941, Hồ Chí Minh mới cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp là những người có mặt trong Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội chuẩn bị về nước bằng việc tổ chức tại làng Nậm Quang thuộc Quảng Tây, Trung Quốc, một khóa huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ, dẫn giải về việc thành lập mặt trận dân tộc rộng rãi ở trong nước.<br />Tháng 2-1941, Hồ Chí Minh về Pac Bó thuộc tỉnh Cao Bằng và công việc đầu tiên là giao cho Vũ Anh, Hoàng Văn Thụ tiến hành tổ chức thí điểm Mặt Trận Việt Minh tại Cao Bằng. <br />Như vậy tới tháng 2-1941, trên danh nghĩa, Hồ Chí Minh vẫn thuộc tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm với tên gọi tắt là Việt Minh. <br />Ngày 19-5-1941, Hồ Chí Minh chỉ có phát kiến tách khỏi tổ chức trên bằng cách thay chữ Hội bằng 2 chữ Mặt Trận và vẫn giữ cái tên tắt Việt Minh quen thuộc trong hoạt động. <br />Lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh để không còn chịu sự chi phối của Hồ Học Lãm, dù chỉ là sự chi phối không đáng kể về ý kiến do cung cách hoạt động lỏng lẻo sẵn có của tổ chức này. Tuy thế, vẫn giữ tên Việt Minh để tiếp tục khai thác mọi thành quả mà tổ chức này dành được từ trước, nhất là để vận động các thế lực quốc tế như Quốc Dân Đảng Trung Hoa và các quốc gia Đồng Minh kháng Nhật do mối tương quan mà Hồ Học Lãm đã có. <br />Với tên Việt Minh, đảng Cộng Sản đã có chiếc áo quốc gia yêu nước từng được quần chúng và ngay cả các giới chức Trung Hoa biết tới từ năm 1935. <br />Ưu điểm này không những giúp Cộng Sản dễ dàng lôi cuốn nhiều phần tử nhiệt huyết trong nước chẳng hạn như lớp trí thức trẻ Dương Đức Hiền, Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm… mà còn thuyết phục cả tư lệnh Đệ Tứ Chiến Khu Trung Hoa Dân Quốc là Trương Phát Khuê cùng các sĩ quan Mỹ hoạt động tại Hoa Nam.<br />Tưởng Vĩnh Kính trong Hồ Chí Minh tại Trung Quốc đã viết: "…Tại sao ông Hồ và trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam muốn lợi dụng lá cờ Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (chỉ bỏ chữ "hội” mà thôi) ? Cách thức đó chính là lặp lại một cách khéo léo điều mà người Cộng Sản gọi là "chiếm lĩnh cơ quan, làm phe tả của họ” . Ý đồ của họ, xét ra không ngoài việc lợi dụng danh nghĩa Độc Lập Đồng Minh Hội… nhằm chiêu dụ tổ chức quần chúng của hội này… Căn cứ vào các tư liệu tại Quảng Tây thời đó, "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh được thành lập tháng 7 năm 1935, là sự hợp thành của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Độc Lập Đảng, Tân Việt Đảng… Các tổ chức quần chúng của nó cũng được ông Hồ đổi thành các hội "Cứu Quốc”… Ý đồ lớn nhất của ông Hồ khi lợi dụng cơ cấu Việt Minh là che giấu cái bộ mặt cộng sản, lợi dụng tình thế cùng tâm lý quần chúng Việt Nam, ngụy trang bằng chủ nghĩa dân tộc, nhằm phát triển thực lực của bản thân.” <br />Chủ ý lợi dụng danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội không còn là nghi vấn vì chính Hoàng Văn Hoan đã ghi rõ.<br />Nhưng trong thời điểm 1940-1945, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng riêng danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Cũng theo Hoàng Văn Hoan, vào năm 1943, khi có cơ hội gặp gỡ và nhận đứng ra tổ chức mạng lưới tình báo tại Việt Nam cho Trương Phát Khuê, Hồ Chí Minh đã yêu cầu Trương Phát Khuê can thiệp với Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần để “có một ủy nhiệm thư của Trung Ương Việt Cách phái Hồ chủ tịch về nước công tác”. Trương Phát Khuê chấp thuận nên Hồ Chí Minh đã “đến Côn Minh với danh nghĩa là ủy viên Trung ương của hội Việt Cách, có trách nhiệm xem xét tình hình phân hội Việt Cách ở Vân Nam....” (17) <br />Theo sử gia Trần Trọng Kim trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, khoảng 1942, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh giải tán Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm vì thấy trong đó có nhiều người hành động theo chủ nghĩa Cộng Sản. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc lúc đó cũng muốn người Việt Nam lưu vong họp thành một lực lượng duy nhất. <br />Ngày 1-10-1942 tại Liễu Châu, Hoàng Lương vốn thuộc lực lượng võ trang Phục Quốc Quân của Trần Trung Lập triệu tập một hội nghị thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Cách bao gồm các tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội vừa có lệnh giải tán, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội cùng một số người không đảng phái. Hội nghị lập ra một Ủy Ban Trừ Bị gồm Nguyễn Hải Thần, Hoàng Lương, Hồ Học Lãm, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Trương Bội Công, Trương Trung Phụng, Trần Báo. <br />Ủy Ban Trừ Bị Việt Cách đã đề nghị Trương Phát Khuê trả tự do cho Hồ Chí Minh bị bắt ngày 29-2-1942, khi từ Pac Bó trở qua Quảng Tây. Hồ Chí Minh được trả tự do ngày 13-9-1943 tại Liễu Châu, tuyên thệ hết lòng trung thành với Việt Cách đồng thời trở thành một nhân viên tình báo của tướng Trương Phát Khuê. <br />Lúc này Ủy Ban Trừ Bị Việt Cách đã đổi thành Ủy Ban Chấp Hành với thành phần chính thức gồm Trương Bội Công, Trần Đình Xuyên, Nguyễn Hải Thần thuộc chủ tọa đoàn và các ủy viên Vũ Hồng Khanh, Bồ Xuân Luật, Trương Trung Phụng, Nông Kính Du và Trần Báo. <br />Vì Hoàng Lương có chuyện bất đồng với các giới chức Trung Hoa nên bị bắt đưa về Trùng Khánh và Trương Phát Khuê đề nghị Việt Cách nhận thêm Hồ Chí Minh vào nhóm ủy viên. Suốt thời gian hoạt động tại Hoa Nam sau đó, Hồ Chí Minh luôn nhận là đại biểu của Việt Minh tức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội trong tổ chức Việt Cách.<br />Trần Trọng Kim viết: “Khoảng tháng 9-1944, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội dời về Quảng Tây và cho Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó Hội cho Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên Đỗ Thị Lạc là người về sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản”. (18)<br />Cho tới tháng 6-1945, Hồ Chí Minh vừa nhân danh Việt Minh, Việt Cách vừa sử dụng giấy tờ chứng nhận của tướng Trương Phát Khuê trong mọi hoạt động để tuyên truyền lôi cuốn những phần tử còn e dè với Cộng Sản và bắt liên lạc với các toán hoạt động đặc biệt của Mỹ tại Hoa Nam. <br />Nhưng Hồ Chí Minh không đem lại thành quả tốt đẹp nào cho các tổ chức kia cũng như cho tướng Trương Phát Khuê trong khi Mặt Trận Việt Minh tiếp tục phát triển theo hướng gia tăng uy thế của Cộng Sản Việt Nam. <br />Những lời nói của Hồ Chí Minh trong thời gian này với người ngoài và với đồng chí phản ảnh rất cụ thể nhận định của Tưởng Vĩnh Kính về hướng nhắm chủ yếu của Hồ Chí Minh – Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó không phải là vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề "bản thân Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không...” <br />Suốt thời gian này với người ngoài, Hồ Chí Minh luôn che giấu nguồn gốc Cộng Sản, trong khi với nội bộ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải củng cố và phát triển đảng. <br />Trong một đoạn nhật ký ghi lại những câu chuyện với Hồ Chí Minh vào khoảng tháng 2-1945, Charles Fenn, trung úy OSS Mỹ ghi: “Tôi đã nghe phong phanh người này là Cộng Sản và tôi hỏi về điều đó. Hồ nói rằng người Pháp gọi tất cả những người Việt Nam mong muốn độc lập đều là Cộng Sản…Giọng nói của ông rõ ràng, dứt khoát, gây cho tôi một ấn tượng mạnh mẽ”. <br />Ngày 17-7-1945, Hồ Chí Minh nói với Thomas, thiếu tá Mỹ chỉ huy toán Deer vừa nhảy dù xuống Tân Trào: “Mặt Trận Việt Minh là tập hợp các đảng phái chính trị được tổ chức với mục đích duy nhất là đấu tranh cho tự do và độc lập”. <br />Với người như Trương Phát Khuê, Hồ Chí Minh không thể chối quanh nhưng cũng có cách nói: “Tôi là một người Cộng Sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là độc lập và tự do cho nước Việt Nam. Tôi có một lời bảo đảm đặc biệt với ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới”. <br />Trương Phát Khuê nghe Hồ Chí Minh nói những lời này ngày 9-8-1944 và đã thâu nhận Hồ Chí Minh làm một nhân viên tình báo. <br />Trong thời gian đó, tháng 12-1944, khi gặp Võ Nguyên Giáp để quyết định thành lập đơn vị vũ trang đầu tiên, Hồ Chí Minh đã thêm hai chữ “tuyên truyền” vào tên đơn vị này và dặn Võ Nguyên Giáp: “Nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng ta ở Tây”. Lời dặn này không chỉ nhắm về mưu lược quân sự, bởi dưới quyền Võ Nguyên Giáp lúc đó chỉ là một trung đội nhỏ nhoi. Võ Nguyên Giáp từng biết rõ Hồ Chí Minh chỉ có 3 ngày vui lớn. “Đó là ngày Bác tìm thấy con đường giải phóng dân tộc khi đọc Luận Cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đó là ngày thành lập Đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 mà Bác là một thành viên. Và ngày lịch sử mồng 3 tháng Hai năm 1930, ngày thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương”. (19) <br />Cho nên nghe lời dặn của Hồ Chí Minh, nhất là khi Hồ Chí Minh thêm hai chữ “tuyên truyền” vào tên gọi của đội vũ trang đầu tiên, Võ Nguyên Giáp đã nhớ ngay tới con đường phải đi và công việc phải làm của mình. <br />Đó là công việc kín đáo tuyên truyền cho con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn. “Giữa lúc vàng thau lẫn lộn, giả thật khó phân, Bác đã nhanh chóng nhìn thấy ánh sáng của chân lý. Bác đã đến với chủ nghĩa Lênin. Bác đã thấy học thuyết Lênin chính là mặt trời đưa lại nguồn tươi vui. Bác đã thấy ngọn cờ Lênin là tượng trưng cho lòng tin và đuốc sáng của hy vọng”. (20) <br />Tháng 7-1945, Hồ Chí Minh lại nhắc Võ Nguyên Giáp: “Lúc nào cũng phải chú ý xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và các phần tử trung kiên”. <br />Võ Nguyên Giáp ghi lại không khí sôi sục nhiệt tình hưởng ứng của dân chúng đối với mọi lời hô hào đấu tranh yêu nước. “Phong trào tìm kiếm, chế tạo, mua sắm vũ khí rất sôi nổi. Những lò rèn ở nông thôn trở thành nơi sản xuất dáo mác, mã tấu cho các đội tự vệ, dân quân. Các em nhỏ đua nhau đi lượm nhặt sắt thép vụn. Người lớn đem tới góp những đồ dùng hàng ngày trong nhà như mâm thau, nồi đồng… cả những đồ thờ cúng như lư hương, đỉnh đồng để đúc thành vũ khí… Với thanh mã tấu, ngọn dáo dài trong tay, tinh thần khí phách thượng võ của dân tộc đã trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết trong anh tự vệ đứng bên trống canh tại trạm gác đầu làng. Các tổ chức tự vệ, du kích phát triển rất nhanh… Hầu hết các thôn xã, đường phố, nhà máy đều có lực lượng tự vệ”. (21) <br />Năng lực và nhiệt tình đó không hề được vận dụng vào mục tiêu phụng sự dân tộc mà được tính toán để trở thành công cụ riêng của Đảng Cộng Sản Đông Dương. <br />Võ Nguyên Giáp cho biết: “Lực lượng tư vệ được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng… nhưng hoàn toàn tự cấp và tự túc về sinh hoạt và trang bị, vũ khí… Đó là một công cụ chuyên chính đắc lực của chính quyền cách mạng để bảo vệ các cơ quan Đảng, Nhà Nước, Mặt Trận… giữ gìn trật tự, trị an, trấn áp bọn phản động… Đi đôi với công tác bảo vệ chính quyền cách mạng, trấn áp bọn phản động, các chiến sĩ tự vệ chiến đấu còn làm công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Mặt Trận, Nhà Nước…” <br />Khi các lực lượng tự vệ được biến thành Vệ Quốc Đoàn, “tất cả các đơn vị Vệ Quốc Đoàn đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua tổ chức của Đảng trong quân đội, thông qua các chi bộ và những cán bộ là đảng viên giữ những vai trò quan trọng”. (22) <br />Nhiệm vụ quan trọng của các lực lượng vũ trang đầu tiên hình thành do mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng chiêu bài giành độc lập đã được Võ Nguyên Giáp nêu rõ là trấn áp phản động tức là trấn áp những người yêu nước không chấp nhận Cộng Sản đang nấp dưới danh nghĩa Việt Minh. <br />Rõ ràng hơn là lời xác nhận của Hồ Chí Minh trong báo cáo chính trị trước Đại Hội Đảng về thành tích của Mặt Trận Việt Minh: “Từ năm 1941,… một số có tinh thần dân tộc đã tham gia những hoạt động tiến bộ của các tổ chức như Tổng Hội Sinh Viên, Hướng Đạo, Phong Trào Truyền Bá Quốc Ngữ hoặc các nhóm tiến bộ tập hợp quanh một số tờ báo tiến bộ như Tri Tân, Thanh Nghị, Thanh Niên… tổ chức một số hình thức sinh hoạt tập thể để qua đó giác ngộ lòng yêu nước… Tuy nhiên, những nhóm này vẫn chưa hình thành tổ chức và chưa tìm thấy hướng đi chính trị của mình. Thực hiện chủ trương mở rộng khối đoàn kết dân tộc của mình, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã giúp những anh em trí thức tiến bộ thành lập Đảng Dân Chủ Việt Nam làm mau tan rã hàng ngũ bọn Đại Việt …” (23)<br />Mấy tiếng “bọn Đại Việt” trong bản báo cáo của Hồ Chí Minh ám chỉ các đảng Đại Việt Duy Dân, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Quốc Dân Đảng… trong tổ chức Đại Việt Quốc Gia Liên Minh phản ảnh rõ thái độ thù địch đối với những người khác chính kiến và Mặt Trận Việt Minh luôn chú trọng đánh phá các tổ chức quốc gia để phát triển Đảng Cộng Sản hơn là chung sức xây dựng một lực lượng dân tộc. <br />Với Mặt Trận Việt Minh, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã cướp được chính quyền vào tháng 8-1945 và động viên toàn dân hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau đó. Những thành quả này được nhiều người coi như thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập. <br />Trên thực tế, nền độc lập Việt Nam vẫn tiếp tục là chiếc bánh vẽ do tính chất lệ thuộc của Đảng Cộng Sản Đông Dương đối với Đệ Tam Quốc Tế. Thành công lớn nhất mà Mặt Trận Việt Minh mang lại chỉ là sự phát triển và củng cố quyền lực của Đảng Cộng Sản bằng cái giá mà dân tộc phải trả là xương máu của hàng triệu con dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự tan rã của nhiều hội đoàn yêu nước do bị vu cáo, trấn áp, ám toán với kết quả hàng trăm ngàn chiến sĩ quốc gia bị sát hại man rợ đồng thời dân tộc bị phân rẽ thành những tập đoàn thù địch đẩy lui đất nước vào tình trạng thoái hóa, nghèo đói… <br />Bernard Fall so sánh việc Hồ Chí Minh nhân danh Mặt Trận Việt Minh lập ra Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng để cướp chính quyền tại Việt Nam với việc Ủy Ban Quốc Gia Ba Lan do Mạc Tư Khoa điều khiển để cướp chính quyền tại Ba Lan năm 1944 và nhận định là có sự trùng hợp kỳ lạ tới mức gần như giống nhau về mọi chi tiết. (24) <br />Thực ra, sự trùng hợp này hoàn toàn không kỳ lạ vì cả Ba Lan lẫn Việt Nam đều chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế và tình hình diễn tiến ở hai quốc gia lúc đó không hề khác biệt nếu được đặt vào bối cảnh chung của cuộc chiến ý thức hệ. <br />Sứ mạng lịch sử của Mặt Trận Việt Minh là đưa Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tới vị thế nắm độc quyền lãnh đạo tại Việt Nam và tạo được một lực lượng trấn áp để thiết lập chế độ cai trị theo đúng kiểu mẫu Liên Xô, bất chấp nguyện vọng của mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam. <br />Nhìn chung, từ nguyên tắc chiến lược Cộng Sản tới hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh không tượng trưng cho một ý nghĩa nào khác tính chất công cụ của Đệ Tam Quốc Tế trong việc mở rộng ảnh hưởng tại Đông Dương. Qua Mặt Trận Việt Minh, Hồ Chí Minh là một cán bộ Cộng Sản xuất sắc nhưng không bao giờ có thể biến hình thành một người yêu nước.<br />Mặt Trận Việt Minh chính là cái bẫy khổng lồ tinh xảo do Cộng Sản dựng lên để qua đó cả dân tộc rơi vào vòng chi phối khai thác của Cộng Sản cho mục tiêu tranh thủ quyền chuyên chính vô sản. Đây cũng là trường hợp ra đời sau này của nhiều mặt trận khác trong số có Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.<br /> <br />CHÚ THÍCH<br />CHƯƠNG 47<br />____________________________________<br />(01) Theo Jean Lacouture thì nó ra đời trong một túp lều lá, với một cái bàn duy nhất. Hiện diện chỉ có mấy người thân tín của ông Hồ từ khi còn ở Hoa Nam như Phạm Văn Đồng,Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Vũ Anh và Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh.<br />(02) Danh nhân Hồ Chí Minh – Trần Đình Huỳnh, Nxb Văn Học, Hà Nội 2001, tr. 68-69 <br />(03) Việt Nam những sự kiện lịch sử – Dương Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr. 330<br />(04) Douglas Pike – Xin xem chương 22<br />(05)-(06)-(07) Indochine S.O.S – Andrée Viollis, Gallimard, Paris 1955, tr.112 & 148 <br />(08) Vietnam, la tragédie Indochinoise – Louis Roubaud, Paris 1931, tr. 126 <br />(09) Hoa cành Nam – Nhượng Tống, Khai Trí, Sài Gòn 1973, tr.180<br />(10) Trente ans de Tonkin – L. Bonnafant, Paris 1924, tr. 214 <br />(11) Lịch trình diễn tiến phong trào quốc gia Việt Nam – Nghiêm Xuân Hồng, Ngày Về, Cali.1973 tr.43-44<br />(12)-(14) Việt nam những sự kiện lịch sử, tr.196 & 330-331. Hội Nhi Đồng Cứu Vong được đổi thành Hội Nhi Đồng Cứu Quốc vào tháng 8-1945, Hội Thiếu Nhi Tháng Tám vào tháng 3-1951, Đội Thiếu Niên Tiền Phong vào tháng 1-1956, phát triển thêm Đội Nhi Đồng Tháng Tám vào tháng 3-1960 và từ 1970 tới nay biến thành Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi Đồng Hồ Chí Minh.<br />(13)-(19)-(20)-(21)-(22) Những năm tháng không thể nào quên – Võ Nguyên Giáp, Nxb QĐND, Hà Nội 2001, tr. 137, 9, 13, 77-78 & 80. <br />(15)-(17) Giọt nước trong biển cả – Hoàng Văn Hoan. Xin xem chương 35.<br />(16) Danh nhân Hồ Chí Minh – Trần Đình Huỳnh, Nxb Văn Học, Hà Nội 2001, tr. 65-67 <br />(18) Theo Trần Đình Huỳnh trong Danh Nhân Hồ Chí Minh thì ngày 9-8-1944, Hồ Chí Minh được tướng Trương Phát Khuê trả tự do và cho phép về nước cùng với 18 thanh niên do Hồ Chí Minh chọn lựa. Đối chiếu con số này với con số do Trần Trọng Kim ghi thì có thể các tài liệu của Đảng đã cố tình bỏ quên Đỗ Thị Lạc và 3 người bị giết.<br />(23) Việt nam những sự kiện lịch sử – Dương Trung Quốc, tr.377<br />(24) Theo Bernard Fall, trong số 14 ủy viên của mặt trận, 11 người đã là đảng viên ĐDCSĐ.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159067988893277562006-09-24T13:18:00.000+10:002006-09-24T13:19:49.106+10:00Chương 48* HỒ CHÍ MINH và tình trạng bị thủ hạ khống chếMột số người Mỹ như Archimedes Patti, Charles Fenn, Gallagher… từng gặp Hồ Chí Minh trước tháng 8-45 và các tác giả Pháp như Bernard Fall, Jean Lacouture, Jean Sainteny... đều mô tả Hồ Chí Minh là người hiếu hòa không thích bạo động. <br />Do đó, khi xảy ra cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968 tại miền Nam đã có người cho rằng Hồ Chí Minh không dính dấp tới sự việc, thậm chí Hồ Chí Minh còn chống lại chủ trương thống nhất đất nước bằng võ lực. <br />Ngoài bản tính hiếu hòa, lý do chính được viện dẫn là Hồ Chí Minh đã cao tuổi không còn nắm thực quyền chỉ đạo chế độ miền Bắc, đặc biệt trong những năm cuối đời, Hồ Chí Minh đã bị nhóm Lê Duẫn khống chế. <br />Nhiều cách biện giải để chứng minh cho nhận định trên đã được đưa ra, trước hết là cuộc “tổng công kích, tổng nổi dậy Tết Mậu Thân” xảy ra chỉ cách ngày cuối đời của Hồ Chí Minh không đầy hai năm và cũng là thời điểm Hồ Chí Minh dưỡng bệnh tại Trung Quốc.<br />Trước đó, tình trạng chia rẽ trong nội bộ Cộng Sản Việt Nam cũng là nguyên do hạn chế quyền lực của Hồ Chí Minh. <br />Theo nhiều tác giả, sự phân bè kết nhóm do ảnh hưởng cuộc xung đột Liên Xô – Trung Cộng đã khiến Hồ Chí Minh không còn giữ được vị thế tối cao của thời gian trước 1954 vì thuộc phe yếu thế. <br />Dựa vào quá trình hoạt động, những người nêu nhận định này cho rằng Hồ Chí Minh đã ngả về phe thân Liên Xô. Đối với Hồ Chí Minh, Mạc Tư Khoa là nơi mở đầu cuộc hành trình đưa vào thế giới Cộng Sản và cũng là vùng đất thiêng tượng trưng cho lý tưởng đấu tranh. <br />Tương quan giữa Hồ Chí Minh với các đồng chí Liên Xô luôn chặt chẽ và đậm đà hơn tương quan với các đồng chí Trung Cộng. Dù được trao vai trò phụ trách vùng Đông Á và có mặt tại Trung Hoa từ cuối năm 1924, Hồ Chí Minh luôn gắn bó với các giới chức Liên Xô trong mọi công tác vì là nhân viên của Đệ Tam Quốc Tế. Ngoài ra, do bản tính ôn hòa, Hồ Chí Minh không tán thành chủ trương sắt máu của Mao Trạch Đông.<br />Kèm theo các biện giải trên là sự viện dẫn một số sự việc ghi nhận qua sách báo viết về Hồ Chí Minh, đặc biệt là một số sự việc mà người kể tự nhận chính là nhân chứng. <br />Những câu chuyện được nhắc lại nhiều lần để chứng minh cho bản tính hiếu hòa, nhân ái là Hồ Chí Minh thường luôn ôm hôn trẻ em mỗi khi gặp gỡ, thường không ngăn được nước mắt ngay trước các đám đông, từng cởi áo khoác tặng một sĩ quan ngoại quốc hay đưa áo len của mình cho một người lính gác giữa mùa đông với manh áo mỏng… <br />Lời lẽ, cử chỉ và dáng vẻ bề ngoài của Hồ Chí Minh khi gặp gỡ cũng lưu lại một ấn tượng thoải mái với Archimedes Patti, Fenn, Gallagher hay Sainteny, Wilfred Burchett, France Fitzgerald ... Và, Lacouture, Bernard Fall đều không quên hình ảnh Hồ Chí Minh đi dép ăn mặc sơ sài từ ngoài bước vào, “tiếng chân nhẹ nhàng như tiếng lụa xào xạc”, (chữ của Lacouture) khi họ đang phỏng vấn thủ tướng Phạm Văn Đồng về những vấn đề quan trọng. <br />Cùng với cách xuất hiện đột ngột đó là những lời thăm hỏi hết sức tự nhiên. Các nhà báo trên đều ghi lại Hồ Chí Minh đã điềm nhiên chuyển câu chuyện qua các đề tài thân mật với từng nhà báo như việc phu nhân Bernard Fall vẽ chân dung Hồ Chí Minh ra sao hay Paris lúc này có gì lạ không vv...<br />Mặt khác, việc Hồ Chí Minh giải tán đảng Cộng Sản, lập chính phủ liên hiệp với những người đối lập, việc ký hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Pháp cũng như nội dung hai bản hiến pháp 1946, 1959 ra đời thuở Hồ Chí Minh còn sống đều không nói đến chuyên chính vô sản và độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản … và đặc biệt, một tin đồn cho tới nay vẫn chưa có bằng chứng xác nhận cũng được nhắc như các chứng cớ biểu hiện tính hiếu hòa và chủ trương chống giải pháp võ lực của Hồ Chí Minh. Đó là tin đồn về việc Hồ Chí Minh gửi tặng Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm một cành đào đính kèm tấm thiệp chúc Tết nhân dịp đón Xuân Quý Mão 1963. <br />Theo tin đồn, thời khoảng sau đó cho tới trước khi xảy ra cuộc đảo chính 1-11-1963 tại Miền Nam, Hồ Chí Minh đã có một loạt cử chỉ bày tỏ thiện chí muốn thương thuyết với chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam để đi tới thống nhất đất nước trong hòa bình. <br />Trong Đêm giữa ban ngày, Vũ Thư Hiên trưng dẫn ý kiến của cha mình, Vũ Đình Huỳnh, vốn là người thân cận với Hồ Chí Minh cho rằng Hồ Chí Minh không chủ trương bạo lực: “Sau vụ bắt bớ giam cầm những người cộng sản bất đồng chính kiến, nhiều người buộc tội ông Hồ Chí Minh, thậm chí gán cho ông những tính chất mà ông không có, như tính hiếu chiến, hiếu sát. Cha tôi giận ông Hồ, nhưng không đồng tình với lời buộc tội đó. Những ngày ở trong rừng Việt Bắc, cha tôi kể, mỗi khi sắp mở một chiến dịch ông Hồ trở nên bẳn gắt và hút thuốc lá luôn miệng, có khi thức trắng đêm. Hồ Chí Minh hiểu hơn ai rằng gắn liền với mỗi thắng lợi trên chiến trường là máu chiến sĩ, đồng bào phải đổ ra” (1) . <br />Riêng Vũ Thư Hiên cũng nhận định về Hồ Chí Minh: “Khi ban lãnh đạo Đảng ngả theo Bắc Kinh, ông Hồ còn buồn hơn. Ông hiểu Mao Trạch Đông, hiểu tham vọng bá, tính cách bá của ông ta. Với đường lối “tọa sơn quan hổ đấu”(ngồi trên núi xem hổ đánh nhau) đã nhiều năm Mao xúi Liên Xô đụng đầu với Mỹ, nay ông ta lại khuyến khích Việt Nam xông trận. Mao sẵn sàng hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống “con hổ giấy” là điều Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết” (2) <br />Về Lê Duẫn, Vũ Thư Hiên viết: “Không có chiến tranh, Lê Duẫn không còn là Lê Duẫn. Lê Duẫn chẳng ngần ngại chê bai Hồ Chí Minh không dám chủ trương dùng bạo lực giải phóng miền Nam. “Bác còn do dự, chớ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng”. (3) <br />Trong Vietnam, la face cachée du régime, Bùi Tín kể lại chính mình đã ghi âm trước nhiều nhân chứng khác, những lời Lê Duẫn tự khoe và chê Hồ Chí Minh không dám chủ trương chiến tranh, chỉ nuôi ảo vọng thực hiện thống nhất bằng đường lối hòa bình. <br />Bùi Tín viết: “Một hôm ông ta (Lê Duẫn) khoe trước những người được chính thức cử viết tiểu sử của ông ta – trong đó có tôi – rằng: Sau hiệp định Genève, bác Hồ vẫn tiếp tục tin là tổng tuyển cử sẽ có thể xảy ra được trên toàn quốc. Đó chỉ là ảo tưởng. Tôi nhìn sự việc đúng hơn Bác. Tôi tiên liệu ngay việc phải dùng tới bạo lực cách mạng. Tôi bảo các đồng chí miền Nam hãy chôn vũ khí. Chính tôi đã bảo họ để lại lực lượng tại miền Nam chứ đừng tập kết hết ra Bắc.” (4) <br />Bùi Tín tỏ ra không tin những lời khoe được đưa ra quá muộn – năm 1983 – nhưng vẫn nhắc lại có lẽ chỉ nhắm cho thấy Hồ Chí Minh ít hiếu sát hơn các thủ hạ và việc xử dụng võ lực là ngoài ý muốn.<br />Cả Vũ Thư Hiên lẫn Bùi Tín đều nhắc đến uy thế và lập trường chủ chiến của Lê Duẫn, nhưng không xác nhận tình huống Hồ Chí Minh bị nhóm Lê Duẫn khống chế như Nguyễn Văn Trấn, một trong số cán bộ Cộng Sản cao cấp nhất của miền Nam. Sau năm 1975, khi thất vọng về lý tưởng Cộng Sản, Nguyễn Văn Trấn đã ghi lại trong Viết Gử i Mẹ và Quốc Hội về thái độ của Hồ Chí Minh ngả theo đường lối “sống chung hòa bình” của Khrutshchev, nhưng thuộc nhóm thiểu số nên bị nhóm Lê Duẫn – Lê Đức Thọ khống chế. <br />Nguyễn Văn Trấn trích dẫn lời Bùi Công Trừng tả cảnh Hồ Chí Minh chủ trì Hội Nghị Trung Ương kỳ 9 ngày 11-12-1963 – chỉ hơn một tháng sau khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam bị lật đổ tại Sài Gòn. <br />Bùi Công Trừng nói với tác giả nguyên văn như sau: “Mày coi, coi nó tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta bận đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà mặt day ra sân. Có lỗ tai tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên Xô. Khi chướng tai quá, quay vô, đưa tay để nói, thì thằng Thọ lễ phép Bắc Hà: “Bác hãy để cho anh em người ta nói đã mà.” Tao đếm lão Hồ đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn. Cuối cùng ông cũng cho hội nghị nghe, ông nói ca dao bằng tiếng khóc: “Khi thương trái ấu cũng tròn. Khi ghét bồ hòn cũng méo”. Và ông nói xụi lơ: “Thấy lợi người ta cho tên lửa vô; thấy bất lợi người ta rút ra mà!” (5)<br />Đó là quang cảnh hội nghị kỳ 9 Trung Ương Đảng đưa ra nghị quyết số 9, nghị quyết tối quan trọng mở màn cho cuộc tấn công miền Nam, sau khi tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm rồi tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bị giết trong tháng trước. Hai vị tổng thống trên đều chủ trương rút quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam, dù lúc ấy cũng chỉ mới có 16 ngàn lính Mỹ được tăng cường từ cuối 1962. <br />Tóm lại, nhiều người kể cả một số người Cộng Sản Việt Nam đã rời bỏ hàng ngũ đều nghĩ rằng sự bùng nổ cuộc chiến Việt Nam sau 1954 cũng như cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 hoàn toàn ngoài ý muốn của Hồ Chí Minh. <br />Ba lý do được viện dẫn cho nhận định này là Hồ Chí Minh vốn do bản tính hiếu hòa nhân ái không ưa chuyện giết chóc, tuổi già bệnh hoạn khiến không thể bao quát mọi công việc và bị một nhóm thủ hạ thân Trung Cộng, cụ thể là nhóm Lê Duẫn vốn theo đuổi chủ trương gây chiến khống chế. <br />Về bản tính hiếu hòa, luận cứ được viện dẫn hầu hết thuộc ý nghĩ chủ quan dựa trên một số giai thoại trong đó gồm cả những giai thoại do chính Hồ Chí Minh dựng nên. <br />Giả dụ hết thẩy những giai thoại này đều xác thực vẫn chưa đủ minh chứng bản tính của một con người luôn đặt vấn đề tuyên truyền lên hàng đầu và từng nhắc một người thân rằng “Làm chính trị phải biết cười khi cần cười, biết khóc khi cần khóc.” Đó là lời Hồ Chí Minh nhắc Vũ Đình Huỳnh mùa thu năm 1946 ở Paris khi Vũ Đình Huỳnh thắc mắc tại sao ông ta có thể khóc dễ dàng như vậy tại nghĩa trang Père Lachaise. <br />Với một người dễ dàng cười khóc theo nhu cầu đối phó với từng hoàn cảnh thì việc ôm hôn trẻ con, việc cởi áo tặng một thuộc hạ thiếu áo, việc băn khoăn bứt rứt sau khi hạ lệnh mở một chiến dịch, việc xuất hiện nhẹ nhàng, nói năng giản dị với các nhà báo ngoại quốc… đều có thể chứa hậu ý tuyên truyền một điều gì đó. <br />Sẽ không khó hiểu nếu bảo những cử chỉ hay lời nói rất tự nhiên trước mắt mọi người thực ra đã được xếp đặt để chinh phục tình cảm hay “đắc nhân tâm” vốn là mục tiêu mà chính khách chuyên nghiệp nào cũng luôn chú trọng. <br />Vấn đề chỉ là không phải bất kỳ ai cũng đạt nổi mức tự nhiên để che giấu tính giả tạo của những cử chỉ hay lời nói đó. Hồ Chí Minh đã được rèn luyện kỹ về nghệ thuật tuyên truyền, về kỹ thuật điệp báo và có thể nhờ sự khôn khéo thiên bẩm nên dễ dàng thành công hơn nhiều người khác trong sự giả tạo một cách rất tự nhiên. <br />Vả lại, bên cạnh những giai thoại trên vẫn hiện diện không ít giai thoại phản ảnh một bản tính ngược lại. Trong hồi ký của Võ Nguyên Giáp và trong các tài liệu lịch sử chính thức của Cộng Sản Việt Nam đều ghi một lời nói của Hồ Chí Minh năm 1945 trong cơn mê sảng dặn Võ Nguyên Giáp: "Dù cho phải đốt cả dẫy Trường Sơn thì cũng quyết dành cho được nền độc lập”. <br />18 năm sau, 1963, Hồ Chí Minh cũng nói một câu tương tự với Chu Ân Lai: “Đừng nói phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh”. <br />Tròn ba tháng sau khi gặp Chu Ân Lai để phát biểu như trên, Hồ Chí Minh đã lên tiếng trong phiên họp Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng chỉ thị về một phương cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam: “Ta vừa tiêu diệt, vừa tuyên truyền”. Những lời lẽ này không chỉ bác bỏ bản tính hiếu hòa của người nói mà còn cho thấy rõ mưu toan vận dụng tuyên truyền để che giấu mức độ hiếu chiến. <br />Thêm nữa, ngay khi nói về bản tính hiếu hòa của Hồ Chí Minh, thậm chí còn nghĩ Hồ Chí Minh tin Chúa Jésus, chính Sainteny lại cho biết không hề ảo tưởng thuyết phục được Hồ Chí Minh nhượng bộ trong cuộc thương thuyết giữa hai người và giải thích về con người Hồ Chí Minh như sau: “Khi những mưu tính của ông ta hay đồng chí của ông ta, hoặc chính bản thân ông ta bị đe dọa, ông ta sẽ không do dự dùng những cách tàn bạo. Về phương diện này, ông ta hoàn toàn thuôïc về cái thứ châu Á quá nhiều mâu thuẫn, ở đó người ta áp dụng các hình thức tra tấn cực hình tinh vi nhất tiếp theo những nghi thức xã giao rất ư ngọt ngào”. <br />Sainteny đã tự xô đổ hình ảnh thần tượng của mình. <br />Bởi, cái tính Á Châu quá nhiều mâu thuẫn được viện dẫn không thể biến một kẻ không do dự dùng những phương cách tàn bạo thành một kẻ hiếu hòa, nhất là kẻ đó lại đủ thủ đoạn để vẫn nói cười ngọt ngào giữa lúc thi thố những cực hình man rợ. Ngôn ngữ Á Châu hay ngôn ngữ Việt Nam đã có những từ để chỉ loại người đó là tàn ác nham hiểm. Người hiếu hòa nhân ái và kẻ tàn ác nham hiểm luôn luôn là hai đối cực ngay tại Á Châu chứ không bao giờ là hai mặt của một con người Á Châu quá nhiều mâu thuẫn.<br />Duiker trong khi bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Hồ Chí Minh cũng cho biết Hồ Chí Minh hết sức trung thành với quan điểm về người đấu tranh cách mạng theo diễn tả của Sergey Nechayev như sau: “Anh ta phải tàn nhẫn, nham hiểm như Machiavel, trong khi cổ võ cho mục đích cách mạng. Anh ta phải tỏ ra tuyệt đối phục tùng đảng của anh ta. và sẵn sàng từ bỏ mọi liên hệ bạn bè và gia đình. Cũng phải sẵn sàng hy sinh những tiêu chuẩn đạo lý đã được nhìn nhận một cách phổ quát, để có thể nói dối, ăn gian vì lợi ích cách mạng…” <br />Kẻ đã chấp nhận từ bỏ mọi liên hệ bạn bè, gia đình để sẵn sàng ăn gian nói dối, sẵn sàng hành động tàn nhẫn nham hiểm không thể là kẻ hiếu hòa nhân ái. <br />Hai bản hiến pháp 1946, 1959 ban hành khi Hồ Chí Minh còn sống không có những điều khoản minh thị nền chuyên chính vô sản như hai bản hiến pháp 1976, 1992 không phải vì Hồ Chí Minh có tinh thần dân chủ hơn mà chỉ vì theo sách lược giai đoạn khi chưa đoạt được quyền lãnh đạo trên cả nước thì chưa thể lộ bản chất độc tài. <br /> Trên thực tế, nội dung hai bản Hiến Pháp đó có thể mang thêm nhiều điều khoản tốt đẹp hơn nữa cũng không có ý nghĩa gì. Bởi, ngay trong thời gian Hồ Chí Minh còn sống, các bản Hiến Pháp vẫn không hề có hiệu lực thực tế mà chỉ là món đồ trang trí không hơn không kém. Hiến Pháp quy định mọi thứ quyền công dân nhưng đủ loại công dân đã bị lôi ra đấu tố, tàn sát trong Cải Cách Ruộng Đất mà chính Hồ Chí Minh diễn tả là cuộc đấu tranh long trời lở đất. Hiến Pháp xác nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nhưng hàng loạt văn nghệ sĩ bị xiềng xích trong các nhà giam với vụ Nhân Văn Giai Phẩm và hàng loạt đồng chí của Hồ Chí Minh chỉ do phát biểu về những sai lầm của giới lãnh đạo đã bị tù đày, bị hành hạ tới chết như Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Bùi Công Trừng, Phạm Viết, Phạm Kỳ Vân, Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Nguyễn Văn Vịnh… thậm chí bị hạ sát tức khắc như Dương Bạch Mai để không thể mở miệng nói ra ý nghĩ của mình.<br />Những sự việc trước đó như tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản, thành lập chính phủ liên hiệp, hô hào đoàn kết dân tộc, ký kết hiệp định Sơ Bộ 6-3-1946… cũng không khác những bản Hiến Pháp chỉ có tính trang trí. <br />Bởi mặt trái của những sự việc đã nói quá rõ về các mưu tính, các thủ đoạn thấm đẫm xương máu của không biết bao nhiêu nạn nhân. <br />Hết thẩy những sự việc trên đều diễn ra ngay trước mắt Hồ Chí Minh, thậm chí do chính bàn tay sắp đặt của Hồ Chí Minh vào giữa thời điểm mà mỗi lời nói của ông đều là một lời “Thánh huấn”. Dù muốn dù không, những tiếng nói thực tế này sẽ tiếp tục cất lên bất chấp một số cá nhân cố sức diễn tả Hồ Chí Minh là người hiếu hòa nhân ái. <br />Bùi Tín cũng là một người cho rằng Hồ Chí Minh không có tính hiếu sát nhưng lại diễn tả về cách hành sử của Hồ Chí Minh đối với những người Cộng Sản Việt Nam thuộc Đệ Tứ Quốc Tế như sau: “Cuối năm 1939, Nguyễn Ái Quốc trong báo cáo gửi Quốc Tế Cộng Sản chỉ rõ: “Đối với bọn trốt-kýt không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát-xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”. Sau đó, từ Trung Quốc, ông gửi thư về nước, chỉ rõ: “Bọn trốt-kýt là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát-xít Nhật và chủ nghĩa phát-xít quốc tế… Vu khống chụp mũ những người trốt-kýt Việt Nam, ám sát, thủ tiêu những người lãnh đạo trốt-kýt như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch là những bạn chiến đấu một thời của những người Cộng Sản, những người lãnh đạo Đông Dương đã thực hiện chủ nghĩa Staline, đã phạm một tội ác trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc”. (6)<br />Bộ áo không làm thành nhà tu nhưng trong rất nhiều trường hợp, bộ áo vẫn có thể gây ra sự ngộ nhận một kẻ sát nhân là nhà tu. Riêng trong câu chuyện về con người Hồ Chí Minh, bộ áo hiếu hòa nhân ái mà một số người đưa ra để che đậy bản tính tàn ác nham hiểm đã không che nổi hai bàn tay thọc quá sâu vào những thảm trạng đẫm máu kéo dài suốt một thời kỳ lịch sử hơn 30 năm kể từ 1930. <br /> Tuổi già và bệnh hoạn cũng là lý do được viện dẫn để đẩy Hồ Chí Minh xa khỏi những quyết định về trận đánh Tết Mậu Thân 1968. <br />Cho tới nay, trận đánh này vẫn được ca ngợi là một trận đại thắng của Cộng Sản Việt Nam với tầm mức quyết định toàn bộ kết quả cuộc chiến vào tháng 4-1975. <br />Tuy nhiên, những người ca ngợi ở khắp nơi, kể cả giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam, đều có vẻ chưa thoát khỏi một mặc cảm gì đó khi nhắc đến trận đánh. Sự vướng mắc có thể khởi phát từ thực tế hiển nhiên là mức tổn thất quá nặng cùng một số phản ứng bất lợi trong dư luận quốc tế đối với đảng Cộng Sản Việt Nam do vụ thảm sát dân chúng tại Huế (7). <br />Về hai sự việc này, Bùi Tín ghi lại: “Đầu năm 1988, nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân, Bộ Quốc Phòng có tổ chức một cuộc họp có ý nghĩa tổng kết về cuộc tiến công Mậu Thân 1968. Có đại điện Bộ Ngoại Giao đến dự và phát biểu về tác động của thắng lợi ấy về mặt đấu tranh ngoại giao. Theo những con số được đưa ra thì quả thật, hy sinh thật là lớn. Hy sinh trong đợt đầu (tháng Giêng 1968) không nhiều, nhưng đến đợt 2 (tháng 5-1968) thì nhiều hơn và đợt 3 (tháng9-1968) lại nhiều hơn nữa. Thiệt hại còn kéo dài sang năm 1969 và đầu năm 1970 với những chiến dịch bình định, bình định cấp tốc rất ác liệt. Qua Mậu Thân, các lực lượng cơ sở, du kích, bộ đội địa phương xây dựng hàng chục năm bị lộ gần hết, bị đánh quét bật ra khỏi các địa bàn quan trọng. Từ giữa năm 1970 tình hình mới khôi phục dần. Ai cũng thấy từ giữa 1968 đến đầu 1970 là thời kỳ chuyển vào thoái trào, phải bị động bảo toàn lực lượng để rồi khôi phục dần cơ sở, sức lực bị tổn thất là lớn nhất so với các thời kỳ khác của cuộc chiến tranh… <br />Trong cuộc tiến công Mậu Thân 1968, cuộc tàn sát ở Huế được dư luận thế giới hết sức chú ý… Hồi ấy, trong không khí căng thẳng đột nhập thành phố, thấy dân không nổi dậy, lại còn bỏ chạy, rất ít người đón chào, phối hợp giúp đỡ bộ đội, nên bộ đội nhập thành phố liền có thành kiến với dân Huế. Họ bảo nhau: Đúng là dân “ngụy” rất nặng căn… Danh từ “ác ôn” hồi ấy dùng cũng tràn lan tùy tiện … Cho nên những vụ tàn sát tập thể có thể đã xảy ra ở các tiểu đoàn đang hành quân rút lui… Các vụ tàn sát này về sau đã được giải quyết ra sao? Có ai bị kỷ luật không? Theo tôi được biết, do dư luận miền Nam, dư luận quốc tế xôn xao, xúc động mạnh nên Tổng Cục Chính Trị, cơ quan thanh tra quân đội có chú ý vụ này. Việc có 5 bác sĩ Cộng Hòa Liên Bang Đức bị giết cũng làm cho vụ này vang động hơn. Tướng Trần Văn Quang có bị phê bình. Chính Ủy Lê Chưởng của mặt trận Trị Thiên về sau chuyển ngành ra Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục. Ông chết trong một tai nạn ô tô ở Nghệ An. Đại tá Lê Minh chỉ huy cánh quân ở tả ngạn sông Hương cũng bị phê bình, ông chết bệnh sau đó.<br />Cách giải quyết những sự việc lớn của chế độ hiện hành luôn che giấu, ém nhẹm, xử lý nội bộ, úp úp mở mở… Việc giáo dục căm thù cần thiết trong chiến tranh đã đẩy tới mức cực đoan quy định tràn lan là “ác ôn”, kẻ thù tối nguy hiểm, không được để bỏ trốn … đã tạo nên những vụ tàn sát khốc liệt. Lẽ ra trong vụ này, công lý đã phải lên tiếng một cách công khai rõ ràng vì liên quan đến mạng sống của hàng ngàn con người… Lẽ ra tất cả hệ thống chỉ huy Trị Thiên đều phải bị điều tra và xử lý về vụ này để qui rõ trách nhiệm từng người, để kết luận một cách công minh, để giảm bớt phần nào nỗi đau của những người trong cuộc và gia đình người thân của họ. Điều tệ hại là những người lãnh đạo đảng Cộng Sản có khuynh hướng coi những sai lầm “tả” khuynh là nhẹ. Như bắt người trong Cải Cách Ruộng Đất, thái độ hung hãn với các tôn giáo, qui định quá mức trong Cải Tạo Tư Sản… đều xử trí qua loa. Họ lập luận rất kỳ quặc là hữu khuynh mới thật tai hại! Hữu khuynh là thiếu tinh thần cách mạng, còn tả khuynh là thừa tinh thần cách mạng. Cho nên, ông Đồng Sỹ Nguyên hồi 1947-1948 ở Quảng Bình phạm tội đốt phá bắn giết một số làng Công Giáo, bị kết án cho yên lòng dân, sau đổi tên (tên thật hồi ấy là Nguyễn Sỹ Đồng) ra Hà Nội làm Cục Trưởng Dân Quân, rồi cứ lên mãi đến Ủy Viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ Tướng (8) …<br />Qua ghi nhận của Bùi Tín, trận đánh Tết Mậu Thân 1968 dù được coi là một cuộc tấn công đặc sắc, táo bạo cùng một lúc đánh vào 44 thị trấn và hơn 100 cứ điểm miền Nam gây một tiếng vang lớn trên thế giới nhưng rõ ràng đã gợi nhắc nhiều nỗi nhức nhối với những người Cộng Sản. <br />Trước hết, trận đánh đã đẩy lui Cộng Sản vào tình trạng thoái trào kéo dài tới giữa năm 1970 do tổn thất nặng nề về nhân sự. Ngoài một số đại đơn vị gần như bị xóa sổ, hầu hết lực lượng cơ sở gồm cán bộ cài đặt từ 1954 và du kích, bộ đội địa phương tốn công tổ chức hàng chục năm cũng bị quét khỏi địa bàn hoạt động. <br />Tổn thất này khiến hầu hết người dân miền Bắc đều mất mát người thân và là một lý do gây bất ổn trong tâm lý quần chúng. Dù chính sách trấn áp vẫn giữ vững quyền lực cho Đảng Cộng Sản, nhưng không thể phủ nhận mức sút giảm uy tín của giới lãnh đạo trước con mắt oán trách đã có từ mọi thành phần, kể cả trong hàng ngũ quân đội. <br />Lực lượng bị tổn hại quá lớn, dân chúng đau đớn vì mất mát người thân, tinh thần binh sĩ xuống thấp vì lâm thế bị động trốn tránh là những hậu quả cụ thể nhất của trận đánh Tết Mậu Thân 1968, trong khi kích đẩy tinh thần chống Cộng của nhiều người dân Miền Nam cho tới lúc đó thường vẫn thờ ơ với mọi vấn đề chính trị. <br />Nói cách khác, đây là một trận thảm bại của Cộng Sản Việt Nam nếu nhìn thuần túy về mặt quân sự và chính trị, vì ngoài những hậu quả trên, trận đánh không đem lại điều gì tốt đẹp. <br />Ngay trên mặt trận ngoại giao và tuyên truyền luôn được coi là quan trọng hàng đầu với Cộng Sản cũng xuất hiện những trở ngại hiển nhiên là dư luận bất lợi về chiêu bài chính nghĩa mà cả khối Cộng Sản Quốc Tế đang vận động những phong trào phản chiến tô vẽ cho chế độ Hà Nội. <br />Cuộc tàn sát tại Huế – Quảng Ngãi và sự vi phạm lệnh hưu chiến nhân dịp Tết để tạo yếu tố bất ngờ cho trận đánh đã đặt nỗ lực ngoại giao và tuyên truyền vào cảnh chống đỡ nhiều hơn tấn công. Chủ trương hận thù giai cấp và tận diệt mọi thành phần đối nghịch mà người Cộng Sản vẫn che đậy bằng bộ mặt yêu nước thương dân lâm thế bị đe dọa bóc trần do hành động được gọi là tả khuynh vốn là kết quả trồng người của Đảng. <br />Bùi Tín cho rằng các cán binh tả khuynh tàn sát những người rơi vào tay họ chỉ bởi đã ngộ nhận về thái độ thờ ơ và trốn chạy của người dân Huế khi Cộng Sản xâm nhập với danh nghĩa giải phóng. Bùi Tín muốn giảm nhẹ tội ác bằng cách đẩy cho những phần tử quá khích không phân biệt nổi bạn và thù do thái độ của người dân Huế lúc đó. <br />Trong lời biện giải đã hiện lên cùng một lúc hai sự thực: dân chúng xa lánh Cộng Sản và Cộng Sản Việt Nam chỉ theo đuổi việc giành độc quyền thống trị. <br />Vì thế, họ đã giáo dục về bạn, thù theo cách biến bất kỳ ai không chịu vỗ tay tán thưởng suy tôn họ đều trở thành ngụy, ác ôn trong mắt cán binh của họ. Những cán binh này cũng được giáo dục kỹ lưỡng về cách đối phó với kẻ thù là tận diệt thay vì để cho trốn thoát. <br />Lời biện giải có thể giúp giảm nhẹ tội lỗi cho những kẻ trực tiếp nhúng tay vào máu nhưng lại gia tăng tội lỗi của giới lãnh đạo vì chính là lời xác nhận hướng nhắm của Cộng Sản luôn ngược với mọi nguyện vọng của dân tộc. Như thế, nhắc tới trận đánh Tết Mậu Thân 1968 theo cách nào cũng khó tránh chạm tới mối đe dọa bóc trần bộ mặt thực của giới lãnh đạo Cộng Sản, đặt họ vào vị thế của những tội phạm đối với dân tộc và nhân loại. Vì qua trận đánh đó, họ chỉ nhắm giành quyền lực tối cao cho tập thể Đảng và sẵn sàng giết người dù đó là những đồng bào vô tội.<br />Kể từ khi thành lập tổ chức đầu tiên năm 1925 tại Hoa Nam cho tới năm 1973, nhiều nhân vật Cộng Sản Việt Nam trong số có cả Hồ Chí Minh gần như luôn tuyên bố với báo chí quốc tế rằng họ không phải Cộng Sản. <br />Sự chối cãi này chính là lời xác nhận giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam ý thức rõ rệt hơn bất kỳ ai hết về mục tiêu họ theo đuổi hoàn toàn ngược với nguyện vọng dân tộc. Cho nên, phủ nhận là việc cần thiết để khai thác sức mạnh dân tộc đồng thời giữ vững chiêu bài yêu nước thương dân trước dư luận thế giới. Không nắm vững được hai yếu tố này, Cộng Sản không những khó hy vọng đạt nổi mục tiêu giành quyền lực cho riêng mình mà còn có thể tiêu tan. <br />Hơn nữa, dù được mô tả là một trận đại thắng, nhưng chính họ lại hiểu hơn ai hết trận đánh Mậu Thân là một thảm bại của họ. Năm 1993, năm năm sau kỳ tổng kết mà Bùi Tín thuật lại, tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử xuất bản tại Hà Nội đã viết về trận đánh Mậu Thân như sau: “Sau tết Mậu Thân, vùng làm chủ của ta bị thu hẹp, cơ sở bị tổn thất, lực lượng vũ trang bị tiêu hao, phải rút dần lên miền núi. Thế trận chiến tranh nhân dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các sư đoàn, 5.7,9 chủ lực của miền Nam mất bàn đạp, mất chỗ đứng chân phải lên vùng biên giới Cao Miên. Khu 8 có 2 trung đoàn, còn 1. Khu 9 có 3 trung đoàn còn 1 trung đoàn và một tiểu đoàn. Du kích đặc khu Sài Gòn chỉ còn 1 phần 3…” (9) Cho nên, một số thân tín muốn đẩy trận đánh xa khỏi tầm trách nhiệm của Hồ Chí Minh đồng thời những người ngưỡng mộ Hồ Chí Minh cũng muốn làm việc đó để tránh cảnh thần tượng bị nhuộm máu. <br />Douglas Pike là người luôn coi mọi thủ đoạn tàn ác và xảo trá của Hồ Chí Minh đều là hành vi biểu hiện thiên tài tổ chức đấu tranh vẫn phải ghi nhận cuộc đấu tranh mà Hồ Chí Minh theo đuổi qua hình ảnh sau: “Khi thực dân bị đánh bại và người Pháp bị đuổi rồi, cái chính nghĩa chống thực dân bị biến đổi từ quyền tự quyết của nhân dân biến thành quyền độc tôn của đảng. Danh nghĩa không thay đổi; người ta chỉ đổi lại định nghĩa của sự chống thực dân. Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục, nay là để chống lại nhân dân Việt Nam, một cuộc chiến dành quyền lực, vì quyền lực… Cái chủ nghĩa chống thực dân cao cả đã trở thành một giai đoạn lịch sử chuyên chế, ham hố quyền lực”. <br />Douglas Pike viết tiếp: “Rất có thể, ông Hồ đã không muốn nó trở thành như vậy”. <br />Câu bào chữa này cũng mơ hồ như lời phát biểu Hồ Chí Minh bệnh hoạn không thể tham gia công việc hoặc như Lữ Phương, một người chạy theo Cộng Sản vào dịp Tết Mậu Thân 1968, được ban chức Thứ Trưởng Văn Hóa của chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam thuở đó, nhưng sau 1975 bị mất chức, tham gia nhóm phản tỉnh, biện bạch rằng Hồ Chí Minh chỉ góp cho cuộc tổng nổi dậy Mậu Thân 1968 một bài thơ.<br />Những người như Douglas Pike, Lacouture, Jean Sainteny, Bernard Fall…hay Lữ Phương, Vũ Thư Hiên, thậm chí Bùi Tín đều chỉ nêu cảm nghĩ chủ quan chứ không có điều kiện gắn bó kề cận với Hồ Chí Minh như Vũ Kỳ trong thời gian chuẩn bị trận đánh Tết Mậu Thân 1968. <br />Vũ Kỳ là bí thư riêng của Hồ Chí Minh trong thời điểm đó đã viết một bài đăng trên ba tờ báo Văn Nghệ, Tiền Phong và Nghệ An với tựa đề “Bác Hồ vui Tết Mậu Thân năm ấy”. <br />Theo Vũ Kỳ, ngày 21-12-1967 Bộ Chính Trị điện sang Bắc Kinh mời “bác về dự hội nghị Bộ Chính Trị ngày 28-12-1967” quyết định ra lệnh tổng tấn công miền Nam. <br />Trận đánh được dự trù khai diễn vào giữa giờ hưu chiến Đêm Giao Thừa miền Nam trong dịp Tết để giành yếu tố bất ngờ. Như thường lệ, nhân dịp Tết Mậu Thân, cả hai phía đều ra lệnh ngưng bắn vào ngày cuối năm cũ và ngày đầu năm mới tức Ba Mươi Tết và Mùng Một Tết trùng với ngUnknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159010924620510382006-09-23T21:25:00.000+10:002006-09-23T21:28:44.723+10:00* Chương 49* HỒ CHÍ MINH và cuộc sống thánh thiệnTừ khoảng mùa hè 1946, trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang tiếp diễn tại Nam Bộ, hầu như khắp các thôn xã miền Bắc thường xuyên có những buổi tập họp dân chúng vào ban đêm để liên hoan văn nghệ hoặc sinh hoạt chính trị mà Võ Nguyên Giáp đã mô tả: “Từ thành thị đến làng quê, đâu đâu cũng cờ mở trống giong, ngày mít tinh, đêm khai hội. Vùng nông thôn Việt Nam lâu đời yên tĩnh chưa bao giờ sôi nổi, rộn ràng như vậy.” (1) <br />Những buổi tập họp bao giờ cũng mở đầu bằng màn trình diễn có tên “Suy tôn Bác Hồ”. <br />Sau lời hô ra lệnh, đèn sân khấu vụt tắt và hai thanh niên để mình trần, đầu chít khăn quì gối giơ cao hai ngọn đuốc trước chân dung Hồ Chí Minh trên bàn thờ Tổ Quốc. <br />Trong ánh đuốc bập bùng, một giọng hùng tráng cất lên kể công ơn lãnh tụ với những lời cuối cùng vang dội: “Hồ Chí Minh, Người là ông Thánh Sống!”<br />Nối theo tức khắc là bản đồng ca quen thuộc:<br />“Đúc gươm thiêng vung cho nước nhà, <br />Dắt dân Việt đi tới đích xa, <br />Hồ Chí Minh, anh hùng bao năm luôn tranh đấu, <br />Thắng gian nguy, tranh công đầu ... <br />Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!…”<br />Màn suy tôn được lập lại không ngừng đêm này qua đêm khác, năm này qua năm khác, thôn này qua thôn khác… đã tạo trong trí tưởng đa số dân quê một hình tượng lãnh tụ phi phàm sánh ngang thần thánh. <br />Hình tượng này còn được liên tục tô chuốt mỗi ngày bằng những chuyện kể về “sự dị thường của Bác” với cặp mắt có hai con ngươi, với tình thương bao la như trời biển chỉ nghĩ tới nhân dân, với cuộc sống hy sinh trọn vẹn mọi sinh thú bản thân để dồn hết tâm lực cho đất nước… và đã xuất hiện nơi không ít tác phẩm viết về Hồ Chí Minh cho tới nay. <br />Với Duiker, “ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ”<br />Với Halberstam, “Hồ Chí Minh là anh hùng số một, anh hùng duy nhất của Việt Nam… là hiện thân cuộc cách mạng của dân tộc ông đối với dân tộc ông và cả đối với thế giới… là nhà ái quốc vĩ đại nhất Việt Nam ở thế kỷ 20”.<br />Với Douglas Pike, “Hồ Chí Minh có tài về tổ chức, tận tụy hy sinh, chí công vô tư, lo trước dân, hưởng sau dân ...”. <br />Với nữ ký giả Hélène Tourmaire: “Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong dáng dấp rất tự nhiên”. <br /> Với Phạm Văn Đồng: “Một con người phi thường và xuất chúng, năng động và linh hoạt trong mọi ứng biến, minh khiết và thanh thản trong tâm hồn và phong độ, người của chủ nghĩa nhân đạo trong ý nghĩa đầy đủ nhất, nhà chiến lược, nhà lãnh đạo, nhà tổ chức, đồng thời là nhà văn hóa, nhà báo, nhà thơ lớn.”<br />Bùi Tín xác định kỹ hơn: “Cá nhân tôi kính trọng ông Hồ Chí Minh…Đây chính là con người thẳng thắn lương thiện (honnête), sống rất giản dị, yêu thích trẻ con và dễ gần gụi với những người hèn mọn nhất (humbles)... Tôi cực lực bác bỏ giả thuyết cho rằng đó chỉ là cái tài đóng kịch của ông.”<br />Nhưng, chính trong tác phẩm của Duiker, Douglas Pike, Halberstam, Bùi Tín … cuộc sống và con người Hồ Chí Minh đã được diễn tả ra sao?<br />Duiker đã kể về đời tư Hồ Chí Minh với một loạt người tình và vợ như Nguyễn Thị Minh Khai, Tăng Tuyết Minh, Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân vv... một cô ở Pháp, vài cô ở Nga và cả chuyện Hồ Chí Minh vào lúc cuối đời nhờ một cán bộ cao cấp Trung Cộng giới thiệu cho một cô gái trẻ để hưởng tuổi già... <br />Duiker còn nêu rõ liên hệ tình cảm giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai là một bí ẩn rắc rối nhất trong đời ông Hồ do Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong. <br />Halberstam ca ngợi Hồ Chí Minh có thủ đoạn hơn người để quét sạch các phần tử đối địch gồm hầu hết là những người yêu nước kể cả người được kính ngưỡng như Phan Bội Châu bằng cách báo cho mật thám Pháp bắt hoặc cho thủ hạ tàn sát sau khi phao vu là lưu manh, phản quốc… <br />Douglas Pike nhắc lại những sự việc đã được Halberstam đề cập và kể thêm: “Theo các nguồn tin đáng tin cậy, ngày thế chiến II bùng nổ (1-9-1939) có kẻ trao cho mật thám Pháp ở Saigon đầy đủ danh sách của nhóm Đệ Tứ với bí danh và địa chỉ của từng người kể cả nơi cư trú địa phương trên toàn quốc. Chỉ trong vài giờ cảnh sát Pháp đã tóm hết các lãnh tụ đầy đi New Hebrides, New Caledonia, Madagascar và những thuộc địa khác của Pháp xa Đông Dương... Sau này nhiều sử gia và các chuyên gia về chính trị quả quyết chỉ có Cộng Sản Việt Nam có tài liệu và khả năng làm một việc có tính tình báo chiến thuật đó.” <br />Và, Douglas Pike tán đồng nhận định của Halberstam với kết luận: “...Hồ luôn luôn chứng tỏ là kẻ đại tài về xảo trá và tàn bạo”. (2)<br />Riêng Bùi Tín phát biểu: “Hồi 1945, mới 55 tuổi, ông tự nhận là cha già dân tộc và xưng Bác với đồng bào trong đó có cả cụ già 70, 80 tuổi là không ổn… Ông viết về bản thân mình, ký tên là Trần Dân Tiên và T. Lan tự khen mình là vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, tự nói về mình rằng: “Bác Hồ rất khiêm tốn, người không bao giờ muốn nói đến bản thân mình” thì thật mỉa mai đến buồn cười!” (3)<br />Dù thành tâm ngưỡng mộ cách nào, những tác giả trên cũng không thể tô điểm cho Vị Thánh Sống của mình bằng những sự việc đã kể. <br />Bởi tất cả những sự việc đó chỉ phản ảnh một tính cách đối nghịch cùng cực với những điều tốt đẹp. <br />Chỉ nhìn riêng về cuộc sống tình cảm riêng tư, các tác giả đã ghi nhận hoặc không dám chối bỏ việc ngoài rất nhiều người tình, Hồ Chí Minh ít nhất đã chung sống như vợ chồng với 5 người phụ nữ:<br />1– Trong Từ thực dân đến cộng sản, Hoàng Văn Chí thuật theo lời kể của Nguyễn Khánh Toàn, cho biết trong thời gian học ở Liên Xô, Hồ Chí Minh cũng như Nguyễn Khánh Toàn đã được Quốc Tế Cộng Sản cấp cho một người Nga làm vợ hờ. Vì Hoàng Văn Chí chỉ nói theo Ngưyễn Khánh Toàn rằng có một cô vợ hờ, mà không nói tên, tuy cũng có người bảo Vera Vasilieva là người tình của Hồ nhưng khó tin vì cô này là cán bộ cao cấp, người từng bao che bênh vực Hồ. <br />2– Năm 2001, sử gia Trung Cộng, giáo sư Hoàng Tranh, viết một bài báo dài kể lại rất nhiều chi tiết về việc Hồ Chí Minh chính thức lập hôn thú với một nữ hộ sinh người Trung Hoa theo Kitô giáo tên là Tăng Tuyết Minh mới 21 tuổi. Tiệc cưới được tổ chức vào tháng 10-1926 tại nhà hàng Thái Bình ở Quảng Châu là nơi trước đó Chu Ân Lai đã làm lễ cưới với Đặng Dĩnh Siêu. <br />Năm 1927, khi Tưởng Giới Thạch bắt đầu diệt cộng, Hồ Chí Minh phải cùng với Borodin trở về Liên Xô, không kịp liên lạc với vợ nhưng Tăng Tuyết Minh vẫn một lòng chung thủy ở vậy chờ chồng cho đến khi lâm chung vào tuổi 91. Nhiều lần bà đã gửi thư cho sứ quán Cộng Sản Việt Nam ở Trung Quốc (lúc ấy do Hoàng Văn Hoan làm đại sứ), cũng như nhờ người chuyển thư sang Hà Nội, khi biết tin chồng bà đã thành chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhưng không bao giờ có hồi âm. <br />Theo Pierre Brocheux, người mối lái cho đám cưới này là Lý Huệ Quần, vợ Lâm Đức Thụ vì Tăng Tuyết Minh rất thân với Lý Huệ Quần. Brocheux ghi theo một tài liệu cho biết chính Lâm Đức Thụ đã kể lại như sau: “Tháng 10 năm 1926, Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh đã thành hôn với một nữ hộ sinh đồng môn với vợ tôi. Nguyễn Hải Thần và Lê Hồng Sơn không tán thành cuộc hôn phối này nên tìm cách chống. Nhưng Lý Thụy đã trả lời: “Tôi cứ lấy vợ, bất chấp các anh không chấp thuận, vì tôi cần một người đàn bà dậy tiếng Trung Hoa cho tôi và săn sóc việc nhà.” (4) <br />3– Nguyễn Thị Minh Khai, theo thông tin chính thức của Đảng, là vợ của Lê Hồng Phong, nhưng William J. Duiker và cả Bùi Tín đều nhắc các tài liệu cho biết từng có thời gian là vợ Hồ Chí Minh vào khoảng 1934-1935. <br />Riêng nhà báo Việt Thường nói Hồ Chí Minh (khi đó còn mang tên Lin và Nguyễn Ái Quốc) đã làm hôn thú với Nguyễn Thị Minh Khai, mặc dù cô này đã hứa hôn với Lê Hồng Phong. Hồ Chí Minh đoạt vị hôn thê của đồng chí trong thời gian Minh Khai thụ huấn lớp đào tạo cán bộ do Hồ Chí Minh phụ trách ở Hồng Kông. <br />Theo Việt Thường, cô con gái của Nguyễn Thị Minh Khai hiện sống ở Saigon và được nói là con của Lê Hồng Phong chính là con của Hồ Chí Minh. <br />Sophie Quinn-Judge, tác giả cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh mới nhất, người đã trực tiếp nghiên cứu các tài liệu mới được giải mật ở văn khố Liên Bang Nga cũng cho biết chính Minh Khai đã khai trong lý lịch bà là vợ của Lin (bí danh Hồ lúc ấy). <br />4– Trong Một Cơn Gió Bụi, sử gia Trần Trọng Kim ghi: “Khoảng tháng 9-1944, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội dời về Quảng Tây và cho Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó Hội cho Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên Đỗ Thị Lạc là người về sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. <br />5– Cô Xuân (5) là người phụ nữ thứ năm sống như vợ chồng với Hồ Chí Minh. <br />Cô Xuân thuộc sắc tộc Nùng, người huyện Hòa An, Cao Bằng, đầu năm 1955, được tuyển “đưa về Hà Nội phục vụ Bác Hồ” và được bố trí sống tại ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Liên hệ giữa Hồ Chí Minh và cô Xuân gần như không ai biết, ngoại trừ Trần Quốc Hoàn lúc đó là Bộ Trưởng Công An, có nhiệm vụ đưa đón cô Xuân ra vào Phủ Chủ Tịch. <br />Năm 1956, cô Xuân sinh con trai, được Hồ Chí Minh đặt tên là Nguyễn Tất Trung, nhưng Hồ Chí Minh không đồng ý cho cô Xuân vào sống tại Phủ Chủ Tịch như vợ chính thức. Khoảng hơn 3 tháng sau, đầu năm 1957, người ta tìm thấy một xác chết ở dốc Cổ Ngư, đưa về bệnh viện Việt Đức nhận dạng là xác cô Xuân và được chôn cất vội vã theo lệnh của Trần Quốc Hoàn. <br />Chuyện cô Xuân được Nguyễn Minh Cần và Vũ Thư Hiên ghi lại với nhiều tình tiết và nêu tên nhiều người liên hệ. <br />Nguyễn Minh Cần lúc đó là Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Hà Nội đã kể: “Hôm đó, vào mùa xuân năm 1957, tôi đang thường trực thì anh Nguyễn Quốc Hùng, thành ủy viên, tới báo cáo có vụ xe cán chết người trên đường Nhật Tân, công an báo cáo người bị cán đã là một xác chết. Anh em công an nói chiếc xe mang biển số của Phủ Chủ Tịch. Mấy hôm sau tôi có hỏi anh Trần Danh Tuyên, bí thư thành ủy, về vụ này thì anh ta nói “Vụ đó giải quyết xong rồi”.<br />Trong Đêm giữa ban ngày, Vũ Thư Hiên kể: <br />“Tôi nhớ một buổi chiều thu 1964, cha tôi đột nhiên bảo tôi:<br />– Con lấy xe đưa bố đi một lát….<br />Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông…<br />– Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống – cha tôi chỉ tay về phía trước – Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của cả một thời đại.<br />Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.<br /> – Con không hiểu bố muốn nói gì.<br />– Lúc này con không hiểu cũng được. Hiểu bây giờ vừa sớm vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng để đừng quên sau này …<br />Ông Nguyễn Tạo (6) đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau:<br />– Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xẩy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh … Nhưng bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó…<br />– Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác?<br />– Một vụ án mạng oan khuất.<br />– Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu?<br />– Ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, cán xác của người đó.<br />– Một hiện trường giả?<br />– Chính là như vậy…Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân, quê ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban Bảo Vệ Sức Khỏe Trung Ương tuyển vào trông nom sức khỏe cho Bác Hồ…<br />– Thời gian nào, thưa bác?<br />– Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955…Cùng được tuyển với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố hàng Bông Thợ Nhộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về…<br />– Mỗi lần như vậy bà ta ở lại bao lâu?<br />– Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm. Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau, trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi…<br />Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín. <br />– Như vậy, có thể coi bà Xuân là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam?<br />– Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha… Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã…<br />– Ai đã giết bà Xuân?<br />– … Ta hãy ghi nhận sự việc này: Vào một buổi sáng mùa Xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm. Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Đức, được nhận dạng. Chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ mà bị chôn cất vội vã theo lệnh của Trần Quốc Hoàn…<br />– Rồi sau thì sao?<br />– Chưa hết. Sau, em ruột cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh… thần kinh. Ít lâu sau, xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang…Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng…” (7)<br />Theo Nguyễn Minh Cần, Trần Quốc Hoàn nhiều lần đến nhà cô Xuân để hãm hiếp cô từ ngày 6-2-1957 tới ngày 11-2-1957 thì giết cô bằng cách đánh búa vào đỉnh đầu rồi quăng xác ở dốc Cổ Ngư dàn cảnh xe cán. <br />Nguyễn Minh Cần cho rằng sự việc có thể xuất phát từ chính Hồ Chí Minh hoặc Bộ Chính Trị đã quyết định thanh toán cô Xuân do cô muốn công khai hóa mối liên hệ và đòi chính thức nhìn nhận đứa con. Trần Quốc Hoàn được giao cho thi hành nên mới dám ngang nhiên hãm hiếp cô Xuân trước khi hạ sát và sau đó giết luôn hai người em cô Xuân vì biết rõ sự việc. (8)<br />Theo Vũ Thư Hiên, một thương binh nhận là chồng của cô Vàng, cuối năm 1983, đã gửi thư lên Văn Phòng Chủ Tịch Quốc Hội ghi lại nhiều chi tiết của sự việc qua lời kể của cô Vàng trước khi bị thủ tiêu. Lá thư dài ghi viết tại Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983 kính gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mở đầu với lời tự giới thiệu như sau:<br />“Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ Tịch hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác mà người vợ chưa cưới của tôi là nạn nhân…”<br />Thư trình bày tiếp sự việc cho biết từ năm 1954, người viết thư có người yêu tên Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn Thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Cuối năm 1952, cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Mấy tháng sau, Trần Đăng Ninh, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hậu Cần mấy lần đến gặp cô Xuân và đầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Được mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội ở trên gác căn nhà số 66 Hàng Bông Thợ Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt là con gái ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột cô Xuân. Thư viết tiếp:<br />Đã luôn hai năm, tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957, tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện huyện Hòa An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lễ, cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi mà không bao giờ tôi có thể lãng quên được.”<br />Thư ghi lại nhiều chi tiết theo lời kể của cô Vàng cho biết khoảng đêm 6 hoặc 7 tháng 2 năm 1957, sau khi cô Xuân sinh con hơn 3 tháng, Trần Quốc Hoàn tới nhà ngang nhiên trói cô Xuân hãm hiếp ngay trước mắt hai cô Vàng và Nguyệt. Sau sự việc này, cô Xuân đã kể với các em: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai”. Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được”. <br />Do đó, cô Xuân đành phải im lặng chờ đợi cho tới khi sự việc xẩy ra theo cô Vàng kể với người tình: <br />"Khoảng một tuần sau, lúc 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau 12 tháng 2, một nhân viên Công An Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn…Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi…Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công An, một Kiểm Sát Viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô… Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt… Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh giữa đầu…<br />Ít lâu sau một cán bộ Công An đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đi đâu (9). Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe… Em chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết… <br />Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng Văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao bị đánh vỡ sọ…Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Tòa Án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm Sát hỏi tòa án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường Y Tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây”...<br />Cuối thư ký tên vợ chồng Nguyễn Thị Vàng sau khi cho biết người lái xe tới đón cô Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến vào năm 1983 đang giữ chức Tổng Cục Phó Tổng Cục Thể Dục Thể Thao và ghi lời cầu xin: “Tôi, một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hòa nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gửi tới trình ông”. (10)<br />Trước phát giác về cuộc sống tình cảm phức tạp của Hồ Chí Minh, Bùi Tín phát biểu: “Ở trong nước, việc đánh giá lại ông Hồ Chí Minh là điều cấm kỵ một cách tuyệt đối. Vì ông là chỗ dựa cuối cùng để những người lãnh đạo duy trì con đường “xã hội chủ nghĩa”, “giữ vững ổn định chính trị” có nghĩa là họ không mất quyền lãnh đạo… Nhà báo Kim Hạnh chỉ giới thiệu về cuốn sách của giáo sư sử học Daniel Hemery nói rằng hồi trẻ ông Hồ có thể có vợ ở Trung Quốc đã lập tức bị mất chức tổng biên tập báo Tuổi Trẻ. Ông Bùi Đình Kế, cục trưởng cục lưu trữ quốc gia viết một bài tương tự trên báo Nhân Dân Chủ Nhật cũng bị khiển trách rồi “cho về hưu”. Lập luận của Ban Văn Hóa và Tư Tưởng là tất cả những chuyện kể trên đều là bịa đặt bậy bạ với ý đồ xấu xa phá hoại đất nước”. Theo Bùi Tín, “nếu quả thật ông có người yêu, có vợ khi còn trẻ thì có gì là xấu? Nếu có cô Brière (Pháp), cô Tuyết Cần (Trung Hoa), cô Véra Vasiliera (Nga) … là bạn, người yêu, là vợ thì cũng là tự nhiên, bình thường, có thể là nét đẹp nữa, vì ông cũng có trái tim như mọi người chứ. Chỉ có kẻ đạo đức giả mới muốn coi ông là thánh”. (11)<br />Quả thật không có gì xấu trong cuộc sống tình cảm tự nhiên của con người. Nhưng, vấn đề được đặt ra không bởi sự việc Hồ Chí Minh từng viết thư tán tỉnh phụ nữ, từng có người yêu. Vấn đề được đặt ra cũng không bởi sự việc Hồ Chí Minh đã nhiều lần có vợ và bỏ vợ. <br />Vấn đề được đặt ra chỉ bởi cách đối xử của Hồ Chí Minh với những người vợ, những đứa con của mình và quan trọng hơn là sự cố tình bịa đặt một cuộc sống tình cảm không có thực để dối gạt dư luận. <br />Những năm trước 1945, việc quần chúng không hiểu rõ cuộc sống riêng của Hồ Chí Minh có thể viện dẫn tình trạng hoạt động bí mật không cho phép nói rõ về bản thân. <br />Tuy nhiên từ 1945 về sau, mọi tài liệu sách báo đều không ngừng nói về cuộc sống độc thân của Hồ Chí Minh như chứng cớ cụ thể nhất biểu hiện tinh thần vì nước quên mình, hy sinh hạnh phúc cá nhân để phục vụ nhân dân. <br />Hết thẩy sách báo đều mô tả Hồ Chí Minh từ tuổi thiếu niên không ngừng băn khoăn tìm đường cứu nước, trọn đời sống khổ hạnh như một bậc chân tu không biết đến niềm vui riêng nào, luôn dồn hết tâm lực cho việc đấu tranh giải phóng dân tộc và cán bộ tuyên truyền khắp nước đã dựng lên màn suy tôn Thánh Sống Hồ Chí Minh cho quần chúng.<br />Trong khi đó, gần như không lúc nào Hồ Chí Minh không nghĩ đến đàn bà và gần như không lúc nào Hồ Chí Minh không có đàn bà ở bên cạnh. <br />Thời gian theo Phan Chu Trinh học nghề thợ ảnh tại Paris, Hồ Chí Minh đeo theo tán tỉnh một cô gái Pháp có tên Bourdon, viết những lá thư tình dài dặc mà sau này Gaspard Thu Trang thu góp in trong cuốn Hồ Chí Minh à Paris. <br />Những ngày nối sau, khi là đảng viên Xã Hội Pháp, Hồ Chí Minh đã có một người tình cũng là đồng chí, có tên Marie Brière được sử gia Daniel Héméry ghi lại trong cuốn Hồ Chí Minh, de l’Indochine au Việt Nam. <br /><br />Những năm đầu ở Mạc Tư Khoa, Hồ Chí Minh cũng không thiếu đàn bà trong sinh hoạt thường nhật. Manabendra N. Roy, lãnh tụ Cộng Sản Ấn Độ từng là ủy viên chính trị của Đệ Tam Quốc Tế, nhưng bị khai trừ năm 1928 trong tác phẩm Men I met kể về những người từng một thời gặp gỡ có đoạn nhắc đến Hồ Chí Minh với cách sinh hoạt như sau: “Vì ở Nga không có những quán cà phê kiểu Paris mà ông ta thường lui tới nên để bù lại cuộc sống kham khổ buồn chán của Mạc Tư Khoa trong những năm 20, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thú vui nơi đàn bà. Đó là các nàng tư sản sa đọa hay các thanh nữ cộng sản phóng đãng bị thu hút mãnh liệt bởi những khóa sinh người châu Á.” (12)<br />Rời Mạc Tư Khoa về Quảng Châu, Hồ Chí Minh lấy vợ năm 1926. <br />Ngày 6-6-1931, lúc bị Cảnh Sát Anh bắt tại Cửu Long, Hồ Chí Minh lại đang sống với một phụ nữ tên Li Sam. <br />Ba năm sau đó, năm 1934, Hồ Chí Minh có con với Nguyễn Thị Minh Khai. Khi Minh Khai về nước, Hồ Chí Minh ở lại cùng Nguyễn Khánh Toàn và đã có một người vợ Nga để có thêm một đứa con lai. <br />Ít năm sau Hồ Chí Minh về nước, sống tại vùng rừng núi Cao Bằng và sinh hoạt tại đây cũng không thiếu đàn bà. Brocheux ghi lời của đại úy Pháp Desfourneaux là người từng có mặt bên Hồ Chí Minh lúc đó kể về một buổi Hồ Chí Minh tiếp đón nhóm sĩ quan đặc vụ Mỹ: “Trong cái trại có cả người Mỹ lẫn người Việt tụ tập thấy có 15 phụ nữ trẻ từ Hà Nội đến để liên hoan. Ông Hồ giới thiệu họ là những “cô gái giải trí chuyên nghiệp” (professional entertainers). Trước buổi liên hoan ông Hồ đã cho chuẩn bị sẵn một hợp chất gồm dược thảo và lộc nhung được coi là có dược tính khích dâm. Người Mỹ từ chối khi được mời tham dự buổi liên hoan”. <br />Desfoureaux thuật lại “nhìn thấy trong ánh mắt ông Hồ như có một ngọn lửa lóe lên khi các nàng kiều nữ tới trại”. <br />Ghi lại mẩu chuyện này, Brocheux thắc mắc “các cô giải trí chuyên nghiệp, thường được hiểu là biết nhảy, biết ca hát .... Tại sao lại pha chế thuốc kích dâm (aphrodisiaques) trước khi liên hoan”? (13)<br />Năm 1942, Hồ Chí Minh rời căn cứ Cao Bằng trở qua Hoa Nam hơn hai năm. Trên đường trở lại Cao Bằng vào tháng 8-1944, Hồ Chí Minh lại có một phụ nữ cùng đi là Đỗ Thị Lạc và sau đó có cùng bà này một cô con gái. <br />Chỉ riêng với những trường hợp đã được ghi nhận rõ ràng, hơn hai mươi năm hoạt động đấu tranh của Hồ Chí Minh cũng là hơn hai mươi năm liên tục đắm chìm trong lạc thú yêu đương.<br />Nói như Bùi Tín, như Duiker vv…, chuyện này chẳng có gì xấu. Nhưng trong lúc sống như vậy, Hồ Chí Minh lại dối gạt mọi người rằng mình là một lãnh tụ cách mạng thanh cao, đạo đức luôn khép mình trong cuộc đời khổ hạnh của một đấng chân tu, một vị Thánh. <br />Chính Bùi Tín từng nghĩ Hồ Chí Minh tự nhận là cha già dân tộc và xưng Bác với đồng bào trong đó có cả cụ già 70, 80 tuổi là không ổn…và cho là mỉa mai đến buồn cười khi Hồ Chí Minh ký tên khác để viết về bản thân mình, tự khen mình là vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, tự nói về mình rằng: “Bác Hồ rất khiêm tốn, Người không bao giờ muốn nói đến bản thân …”<br />Bùi Tín nêu một loạt tiêu chuẩn cho việc nhận diện Hồ Chí Minh là cần khách quan, công bằng, không nên dự đoán và suy diễn. Các tác giả như William Duiker, Halberstam, Douglas Pike, Sainteny, Bernard Fall... và hết thẩy những người khác hẳn cũng nghĩ thế. Vấn đề là hết thẩy có theo nổi đúng những tiêu chuẩn do chính mình đã nêu không?<br />Riêng với Bùi Tín chắc chắn là “không”, qua lời phát biểu: “Cá nhân tôi kính trọng ông Hồ Chí Minh…Đây chính là con người thẳng thắn lương thiện (honnête), sống rất giản dị, yêu thích trẻ con và dễ gần gụi với những người hèn mọn nhất (humbles)... Tôi cực lực bác bỏ giả thuyết cho rằng đó chỉ là cái tài đóng kịch của ông.”<br />Bởi vì, có thể gọi là người thẳng thắn, lương thiện không, khi người đó dùng mọi cách che giấu những hành vi thực của mình, thậm chí giả xưng nhà văn, nhà báo viết sách ca ngợi mình là anh hùng vĩ đại, là khiêm tốn, là cao thượng? <br />Có thể gọi người luôn tìm cách đẩy vợ vào bóng tối để trình diễn cuộc sống độc thân và rũ bỏ những đứa con của chính mình là người giản dị, yêu thích trẻ con không?<br />Có thể gọi người thản nhiên vô cảm trước hành vi sát nhân mà nạn nhân chính là kẻ đầu gối tay ấp với mình là người nhân ái, dễ gần gụi với những kẻ hèn mọn không? <br />Có thể gọi người nhân danh lý tưởng để lạm dụng quyền hành vào việc thỏa mãn những thú vui riêng của bản thân là người tận tụy hy sinh không? <br />Có thể gọi người ôm ấp phụ nữ trên giường giữa lúc khắp nơi dân chúng kêu khóc và máu của các đồng chí đang tuôn đổ là người lo trước dân, hưởng sau dân không? <br />Có thể gọi người luôn ngoảnh mặt làm ngơ trước những chuyện bất bình đau đớn bằng cách viện dẫn phải chiều theo một áp lực nào đó là người chí công vô tư không? <br />Và, có thể gọi một người làm tất cả những việc đó mà luôn xuất hiện trước đám đông với bộ mặt dịu dàng, cử chỉ âu yếm, lời lẽ ngọt ngào khuyên nhủ cần sống hợp đạo lý, cần hết lòng thương yêu kẻ khác là người không biết đóng kịch không?<br />Duiker, Halberstam, Douglas Pike, Bùi Tín vv… có thể kính trọng, ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, chọn Hồ Chí Minh làm thần tượng không cần giải thích lý do. <br />Tuy nhiên, mọi câu trả lời khách quan cho những nghi vấn trên chỉ phác họa chân dung một kẻ luôn che giấu cuộc sống thực bằng những thủ đoạn trình diễn kiệt xuất như chính Douglas Pike và Halberstam đã nhìn nhận “...Hồ luôn luôn chứng tỏ là kẻ đại tài về xảo trá và tàn bạo”. <br />Bùi Tín cũng đã kết án việc “vu khống chụp mũ, ám sát, thủ tiêu những người lãnh đạo trốt-kýt như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch là … một tội ác trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc”. Tuy Bùi Tín thận trọng ghi tội ác này là của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương, nhưng lại xác nhận mọi việc khởi từ chỉ thị của Hồ Chí Minh, nhân danh thực hiện chủ nghĩa Stalin. <br />Không dễ tìm nổi mối tương đồng giữa kẻ chủ trương vu cáo, thủ tiêu những người yêu nước, phạm tội ác trong lịch sử đấu tranh với người nhân ái, có công đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. <br />Cũng không dễ tìm nổi mối tương đồng giữa kẻ xảo trá tàn bạo với người thẳng thắn lương thiện, giữa kẻ gạt bỏ tất cả những đứa con của mình và nhẫn tâm sát hại chính vợ mình với người giản dị, yêu thương con trẻ và người hèn mọn …<br />Càng khó tìm nổi mối tương đồng giữa kẻ đã nhúng tay vào tội ác và có cuộc sống riêng nhầy nhụa, lén lút nhưng luôn tô vẽ mình là anh hùng vĩ đại, đạo đức tuyệt vời, gương mẫu bậc nhất với người luôn thẳng thắn, không hề biết đóng kịch.<br />Nhiều người vì một lý do riêng nào đó đã cố gắng xóa lằn ranh giữa tàn bạo và nhân ái, giữa lương thiện và xảo trá, giữa giản dị và quanh co, giữa thẳng thắn và gian dối… nhưng đây là việc bất khả thi dù tốn hao công sức cỡ nào. <br />Lằn ranh kia sẽ tiếp tục tồn tại và tồn tại mãi mãi để phân biệt hai mặt thực tế và xác định ý hướng của mỗi con người trong cuộc sống. <br />Chọn lựa thẳng thắn hay gian dối, chọn lựa giản dị hay quanh co… nằm trong ý hướng và nỗ lực của mỗi con người được chứng minh bằng chính hành vi của con người đó. <br />Hành vi của Hồ Chí Minh đã chứng tỏ ý hướng và nỗ lực của ông nghiêng về phía nào, bất chấp mọi biện giải của những người khác ở xung quanh ra sao. <br />Cho nên, để nhận diện Hồ Chí Minh một cách khách quan và công bằng không thể dựa vào những biện giải mà chỉ có thể nhìn thẳng vào hành vi của chính Hồ Chí Minh. <br />Trên thực tế, Hồ Chí Minh từng có vợ, có con và có nhiều vợ, nhiều con từ tuổi ba mươi tới cuối đời. Đây là một thực tế không thể phủ nhận. <br />Suốt thời gian đó, Hồ Chí Minh luôn tránh né đề cập đến việc vợ con và năm 1967, khi Bernard Fall nêu câu hỏi về vấn đề này, chính Hồ Chí Minh đã cho rằng tất cả chỉ là tin đồn sai sự thực. (14) Đây cũng là một thực tế hiển nhiên. <br />Sự hiện diện song song của hai thực tế này đủ bài bác mọi lời biện giải khởi từ những dự đoán hay suy diễn mang tính chủ quan của mọi người. <br />Bùi Tín luôn kính trọng Hồ Chí Minh cũng không thể phủ nhận tiếng nói này của thực tế. Tuy nhiên, theo Bùi Tín, Hồ Chí Minh phải tuân hành ý Đảng. <br />Giả dụ cứ cho rằng ý nghĩ này không phải dự đoán và suy diễn để coi là thực tế thì lại gặp một thực tế ngược lại. Đó là sự có mặt của cuốn sách do chính Hồ Chí Minh giả xưng nhà báo Trần Dân Tiên để viết về mình với những dòng mở đầu: “Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế mình”. <br />Bùi Tín nói đây là điều mỉa mai đến buồn cười vì cảnh Hồ Chí Minh ngồi nắn nót hàng chữ trang trọng “Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế”. (15) <br />Nhưng đây mới chỉ là bước mở đầu cho những bước tiếp không còn buồn cười mà phải cười ra nước mắt khi hình dung chính Hồ Chí Minh đang viết những dòng sau: "Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm nhường dường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được.” <br />Kiều Phong trong Chân dung Bác Hồ phát biểu: "Nếu bác tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách … không bao giờ được viết ra vì từ ngày 4-9-1945 cho tới chết, có bao giờ hết cảnh "rất nhiều đồng bào đang đói khổ" hay có khi nào bác hết "những công việc cần kíp đâu.” (16) <br />Tất nhiên Hồ Chí Minh không tôn trọng lời nói của mình vì biết rõ mình đang nói dối và thấy nói dối là cần nên đã tiếp tục kể: “Khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi… đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào… đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào… đã tham gia công tác bí mật, nhận việc liên lạc… nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào, vì: Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám trực tiếp chống Pháp, nhưng còn nặng cốt cách phong kiến. Anh thấy rõ và quyết định con đường nên đi…” <br />Hồ Chí Minh tả tiếp về mình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 sau khi đã chọn được con đường nên đi: “Ngày hôm đó, lần đầu tiên thủ đô Hà Nội được “mắt thấy” người con yêu quý nhất của dân tộc Việt Nam… Nhân dân nhận thấy Hồ Chủ Tịch giản dị, thân mật như một người cha hiền về với đám con…Quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha…” <br />Và, hình ảnh Hồ Chí Minh do Hồ Chí Minh giới thiệu trước công chúng như sau: “Nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ Tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ Tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ Tịch. Không có gì so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh… Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng yêu nước, yêu nhân dân… Hơn bốn mươi năm nay, Hồ Chủ Tịch chỉ đeo đuổi một mục đích giải phóng Tổ Quốc và đồng bào… Chủ Tịch đã từng chịu đựng khổ sở vất vả không thể tưởng tượng được suốt trong thời kỳ hoạt động bí mật…Nhưng Chủ Tịch dũng cảm và kiên quyết vượt qua mọi khó khăn. Chủ Tịch không bao giờ thay đổi, vẫn luôn luôn là một người yêu nước trong sạch và nhiệt tình… Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Đúng như lời nói của Mặc Tử, nhà triết học Trung Quốc đời xưa: “Nếu có lợi cho thiên hạ thì dù mình bị mài mòn từ gót đến đầu cũng vui lòng”…Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân. Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do tính cương trực và lòng trong sạch của Người. Thái độ của Người ngay thẳng…Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng suất. Đối với nhi đồng, tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn... Nhân dân gọi Chủ Tịch là Cha Già của Dân Tộc…” (17)<br />Kiều Phong nhận xét: "Hãy bỏ qua những câu chuyện dại dột, lố bịch.... chỉ cần nhìn lại chính cái giây phút Bác ngồi nắn nót viết câu đó là thấy Bác man trá chừng nào. Đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói, chiến tranh còn khốc liệt… con người "chỉ nghĩ đến nhân dân” ấy lại tranh nghề của bọn văn nô, bỏ hết thời giờ tâm trí vào việc ngồi viết văn tự tâng bốc. Vào lúc người dân Việt đang thi đua gục ngã ở chiến trường theo sự hướng dẫn của Chủ Tịch thì vị "cha già dân tộc” cứ say sưa bận rộn với sự nghiệp tự nâng bi. Có ông Cha già nào trên đời lại nhố nhăng, vị kỷ và bất nhân đến thế!” (18) <br />Thực ra phải nói không một người nào, dù chỉ đạt mức thẳng thắn và lương thiện tối thiểu, lại dám tự gán cho mình những mỹ hiệu tột đỉnh như “người con yêu quý nhất của Việt Nam, người cha hiền của quần chúng, người được toàn dân kính yêu không gì so sánh nổi, người sẵn sàng mài mòn từ gót đến đầu để mưu lợi ích cho thiên hạ, người dũng cảm, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, người chịu đựng mọi gian khổ cùng cực, người cương trực, trong sạch và người được nhân dân gọi là Cha Già của Dân Tộc…” <br />Trong lịch sử nhân loại chắc chỉ duy nhất có một người hoàn hảo như vậy, một người mà danh hiệu Thánh Sống cũng chưa diễn tả hết những đức tính tuyệt vời. <br />Nhưng thực tế cuộc sống của người đó ra sao? <br />Mức gian khổ cùng cực được đưa ra là gì? <br />Phải chăng là vỏn vẹn hai lần bị bắt tại Trung Hoa vì lý do hoạt động cho Cộng Sản với không đầy ba năm tù và chưa từng bị đòn vọt? <br />Phải chăng là những năm tháng đóng vai nhà báo, đóng vai sĩ quan Trung Cộng… với nguồn tiền bạc do Đệ Tam Quốc Tế cung cấp đều đặn? <br />Phải chăng là những buổi liên hoan có cả thuốc kích dâm ngay giữa mật khu và ở đâu, lúc nào cũng không thiếu đàn bà bên cạnh? …<br />Theo Bùi Tín, Nguyễn Tạo và cả Vũ Thư Hiên, Hồ Chí Minh ở vào thế không thể đi ngược ý muốn của tổ chức, cụ thể là do Đảng quyết định. <br />Đảng muốn biến Hồ Chí Minh thành “Thánh Sống” trước mắt dân chúng để trở thành “Cha Già Dân Tộc” và Hồ Chí Minh bắt buộc phải tuân theo. <br />Như vậy, tội xảo trá lừa gạt là tội của Đảng còn Hồ Chí Minh đã trở thành Thánh Sống, thành Cha Già Dân Tộc một cách bất đắc dĩ. <br />Nhưng cả Bùi Tín lẫn Vũ Thư Hiên đều thấy việc Hồ Chí Minh giả xưng nhà báo để viết hai cuốn sách về mình không do lệnh Đảng. Bùi Tín nghĩ là điều mỉa mai buồn cười còn Vũ Thư Hiên cho là hành động ngớ ngẩn thừa thãi. <br />Thực ra, người ngớ ngẩn đáng buồn cười không bao giờ là Hồ Chí Minh. Chính Bùi Tín từng nói Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng ở đường lối và kinh nghiệm của Liên Xô với thái độ giáo điều, đã đi đầu trong việc mang chủ nghĩa Mác-Lênin được Stalin hóa vào Việt Nam. <br />Như vậy, hơn ai hết, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ tầm vóc quan trọng của võ khí tuyên truyền, trong đó việc tạo dựng thần tượng là một yếu tố quyết định thành bại của nỗ lực đấu tranh. <br />Thần tượng tạo sức mạnh thu hút, đồng thời cũng tạo sức mạnh chi phối đối với quần chúng và dư luận. Để đạt mục tiêu này, thần tượng phải bao gồm mọi khía cạnh đáp ứng đúng nhu cầu tình thế và nguyện vọng quần chúng. <br />Trong hoàn cảnh toàn dân sôi sục nhiệt tình yêu nước, thần tượng không thể chỉ hiện ra như một nhân vật tài năng quán thế mà còn phải là biểu tượng tột cùng của tinh thần dân tộc. <br />Đây cũng là khía cạnh vô cùng quan trọng trong đòi hỏi của tình hình thế giới đang bắt đầu hình thành trận tuyến giữa tự do và cộng sản. Chính vì thế, mặc dù tự gán cho mình mọi màu sắc tuyệt vời, Hồ Chí Minh đã nỗ lực che giấu niềm tự hào cao nhất là tính chất Cộng Sản. <br />Hồ Chí Minh không hề ngớ ngẩn thừa thãi hoặc làm trò cười khi vùi lấp vóc dáng thực là Vị Thánh của Chủ Nghĩa Cộng Sản như Krutshchev đã mô tả để tự gán cho mình danh hiệu Cha Già Dân Tộc. <br />Danh hiệu này chính là võ khí cần thiết cho việc thu hút những người yêu nước, đặt tất cả dưới sự chi phối đồng thời vận động sự hỗ trợ trên khắp thế giới để tạo một thế trận dư luận bao vây cô lập mọi đối thủ. <br />Diễn trình cuộc chiến Việt Nam trước và sau 1954 đã nói lên thực tế này rất rõ ràng với không ít chứng liệu. <br />Hồ Chí Minh, như Bùi Tín diễn tả, là người đi đầu trong việc truyền bá lý tưởng Cộng Sản, là tín đồ nặng tinh thần giáo điều của chủ thuyết Stalin, nên không thể nhắm mục tiêu nào ngoài việc phát triển ảnh hưởng Cộng Sản để đi tới thiết lập nền chuyên chính vô sản trên toàn thế giới. <br />Nhưng đã không ít lần, Hồ Chí Minh cũng như các thủ hạ từng tuyên bố mình không hề là Cộng Sản, mục đích của mình chỉ là giải phóng dân tộc. <br />Luận điệu tuyên truyền này được phụ họa với dàn đồng ca xưng tụng thần tượng là Cha Già Dân Tộc cất lên không ngừng ở bất kỳ nơi nào đã tạo ảnh hưởng không nhỏ trong dư luận thế giới mà chứng tích đầy rẫy trong sách báo. Ảnh hưởng đó đã góp phần quyết định thắng lợi cho Cộng Sản trong mục tiêu giành quyền thống trị. <br />Tự phong là Cha Già Dân Tộc, Hồ Chí Minh không hề ngớ ngẩn mà đã mở ra một chiến dịch lớn trên mặt trận tuyên truyền tấn công thẳng vào dư luận cả trong lẫn ngoài nước để củng cố chiêu bài giải phóng dân tộc cho Đảng Cộng Sản theo đuổi mục tiêu độc chiếm quyền lực tại Việt Nam. <br />Tầm mức quan trọng đó khiến Hồ Chí Minh phải đích thân tự tô vẽ bức tranh thần tượng của mình thay vì trao cho thủ hạ. Cho tới nay, nhiều hình ảnh Hồ Chí Minh được giới thiệu ở khắp nơi đều rập theo khuôn mẫu do Hồ Chí Minh đưa ra từ đầu năm 1948 cho thấy ảnh hưởng của trận đánh tuyên truyền này sâu rộng tới mức nào. <br />Nhưng dù nhắm mục đích nào, lường gạt vẫn là lường gạt. <br />Hồ Chí Minh đã lường gạt quần chúng Việt Nam và lường gạt cả dư luận thế giới để giành thắng lợi cho Cộng Sản. <br />Biện giải để trút bỏ trách nhiệm lường gạt từ Hồ Chí Minh qua Đảng Cộng Sản Đông Dương là điều ngược với thực tế. <br />Bởi lẽ, Đảng trị chỉ là tên gọi khác của một kiểu mẫu chế độ độc tài mà trong đó lãnh tụ luôn nắm quyền uy tuyệt đối của một bạo chúa. <br />Bùi Tín đã nhìn về Đảng Cộng Sản Việt Nam như sau: “Đảng độc quyền lãnh đạo, không cho phe phái xuất hiện trong Đảng, giữ một khối thống nhất nguyên khối (monolithique) … Đảng là nhà nước, đồng nhất với nhà nước, Đảng là luật pháp, coi thường luật pháp… Đảng và chính quyền là của một nhóm lãnh đạo, là của một lãnh tụ duy nhất”. (19) Khi Đảng đã là thứ nằm dưới quyền sai xử của một lãnh tụ duy nhất thì có thể ban chỉ thị cho lãnh tụ chăng? <br />Nếu Đảng có đủ uy lực ép buộc Hồ Chí Minh phải làm ngược ý muốn chắc chắn Hồ Chí Minh đã không thể có cuộc sống hoang tàng như từng có. <br />Để diễn tả chính xác, chỉ có thể bảo Đảng chính là một công cụ vận dụng tối đa uy lực để phục vụ Hồ Chí Minh. <br />Trước hết, chính các cán bộ cao cấp của Đảng đã phải đi kiếm gái đẹp về cho Hồ Chí Minh. Trường hợp cô Xuân là một chứng minh và có thể kể thêm trường hợp bất thành với cô Nguyễn Thị Phương Mai tại Thanh Hóa. <br />Kế tiếp, chính các cán bộ cao cấp của Đảng phải cúi đầu nhận cái công việc đêm đêm lén lút đưa gái tới với Hồ Chí Minh.<br />Sau đó, cơ cấu chỉ đạo cao nhất của Đảng cùng các cơ quan viên chức Nhà Nước lại lên tiếng ca ngợi Hồ Chí Minh là ông Thánh Sống, là bậc chân tu đạo hạnh tuyệt vời để dối gạt dư luận. Hồ Chí Minh đã hóa thân thành Đảng và nhân danh Đảng để biến đồng chí thành một nhóm thủ hạ tận trung tới mức sẵn sàng làm mọi việc kể cả nhúng tay vào máu như trường hợp cô Xuân, khi phát giác thấy dấu hiệu đe dọa sự nguyên vẹn của tấm áo thần thánh mà Hồ Chí Minh đang mặc.<br />Chiếu theo thực tế, uy quyền của Hồ Chí Minh trong tương quan với Đảng Cộng Sản Việt Nam còn vượt khỏi phạm vi diễn tả của Bùi Tín. <br />Trước 1945, Đảng chỉ có tư cách một chi bộ độc lập trực thuộc Đệ Tam Quốc Tế mà Hồ Chí Minh là đại diện nên người ra chỉ thị cho Đảng, quyết định mọi đường đi nước bước của Đảng chính là Hồ Chí Minh. <br />Trong tương quan cá nhân, hết thẩy tập thể lãnh đạo Đảng đều thuộc vai học trò của Hồ Chí Minh nên Hồ Chí Minh từng thoải mái tuyên bố là không ai có thể làm được điều gì nếu không có Hồ Chí Minh. <br />Kể từ 1945, khi Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo Đảng thì uy quyền trở nên tuyệt đối hơn. Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… đều đã bày tỏ thái độ tuân phục triệt để trước Hồ Chí Minh mà chứng cớ cụ thể là lời lẽ phát biểu về lãnh tụ trong các tác phẩm viết nối tiếp sau tác phẩm của Hồ Chí Minh tự ca ngợi mình. <br />P.J Honey từng mô tả về uy quyền lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong Đảng và Nhà Nước ở Hà Nội: “Chỉ một mình ông quyết định những vấn đề chính trị cao cấp, còn những kẻ khác, kể cả các ủy viên bộ chính trị, chỉ có việc chấp nhận và tuân hành mệnh lệnh của ông về các vấn đề liên quan”. <br />Cho nên, không thể cho rằng Đảng ép buộc Hồ Chí Minh phải trở thành Thánh Sống. <br />Trên thực tế, chính Hồ Chí Minh đã chỉ đường vạch lối cho Đảng phải thần thánh hóa mình và còn vẽ ra cả hình thù của vị thánh Hồ Chí Minh. Bằng chứng về ý muốn này của Hồ Chí Minh đã hiện diện ngay trước mắt mọi người là 2 cuốn sách ký tên Trần Dân Tiên và T. Lan. <br />Dù 2 cuốn sách được viết ra bởi bất kỳ lý do nào thì vẫn chứa đựng ý của người viết muốn tô điểm mình thành một khuôn mẫu nhân vật do chính mình diễn tả bằng mọi thứ mỹ từ như anh hùng cứu nước, con yêu của đất nước, cha già dân tộc...<br /> Khởi từ đây, Đảng đã tô vẽ cuộc đời đấu tranh không thiếu niềm vui của Hồ Chí Minh thành cuộc đời đầy gian lao khổ hạnh, đã làm mọi cách để vùi lấp những người đàn bà sống bên cạnh Hồ Chí Minh kể cả nhúng tay vào máu, đã phải đi từ khuyến dụ tới ép buộc mọi người dành riêng tiếng Bác để gọi Hồ Chí Minh và tô vẽ cho Hồ Chí Minh những màu sắc huy hoàng nhất bằng các màn trình diễn suy tôn Thánh Sống trong các buổi sinh hoạt với dân chúng trên toàn miền Bắc từ năm 1946. <br />Khi Hồ Chí Minh giả xưng nhà báo có tên Trần Dân Tiên tạo ra khuôn mẫu thần tượng cho bản thân mình thì toàn Đảng có nhiệm vụ phổ biến khuôn mẫu thần tượng này. Đảng chỉ tuân hành chỉ thị còn người chủ trương xảo trá, lừa gạt không là ai khác, ngoài Hồ Chí Minh, dù đã có những biện giải ra sao. <br />Với thực tế này, việc Hồ Chí Minh có tài đóng kịch đã trở thành rõ ràng. Bởi kẻ thiếu tài đóng kịch để che giấu chân tướng thì không lường gạt nổi ai. <br />Cho tới giờ này, sự kiện Hồ Chí Minh vẫn được Bùi Tín kính trọng vì cho là người lương thiện, vẫn được Sainteny nghĩ là người tin ở Chúa Jésus, vẫn được Nguyễn Tạo, Vũ Thư Hiên tội nghiệp do bị áp lực đến nỗi phải im lặng khi vợ mình bị thủ hạ sát hại và vẫn được nhiều người cho là nhà ái quốc vĩ đại hết lòng lo cho dân, cho nước… chứng tỏ Hồ Chí Minh không chỉ có tài đóng kịch mà còn là kịch sĩ kiệt xuất đã che mắt không chỉ một người mà nhiều người trong một thời gian dài. <br />Tài đóng kịch của Hồ Chí Minh có thể do thiên phú và phần khác do được rèn luyện về các kỹ năng tuyên truyền, kỹ năng điệp báo... <br />Truy tầm nguồn gốc các kỹ năng này hoàn toàn không cần thiết bởi chủ điểm của vấn đề ở đây chỉ là Hồ Chí Minh có tài đóng kịch hay không. Chủ điểm đó đã có lời giải đáp qua thực tế con người hai mặt không thể phủ nhận của Hồ Chí Minh với đủ loại huyền thoại. <br /> Dù sao, công bình mà nói phải nhận là về phương diện này Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài trí hơn người. Cứ tưởng tượng một diễn viên điện ảnh hay một điệp viên quốc tế đã phải tốn biết bao công phu rèn luyện mới leo lên đến bậc siêu sao hay điệp viên thượng thặng. Thế mà Hồ Chí Minh, ngoài cái tài xuất chúng về tuyên truyền chẳng khác gì một nhạc trưởng của dàn nhạc giao hưởng, ông còn có tài “đóng kịch” một cách kiệt xuất, đến nỗi những kẻ gần bên ông như Bùi Tín, hay những bậc thức giả như Bernard Fall đã phải thốt lên: “Không phải kịch!” hay “Không thể nào đóng kịch tài đến thế trong suốt một thời gian dài đến thế!” Nhiều người đã đánh giá ông Hồ quá thấp khi bảo tuyên truyền chỉ là nói dối, ai làm không được. Hoặc đóng kịch chỉ là đánh lừa, cái tài của bọn gian manh! <br />Thực ra tuyên truyền chính trị là một khoa học, hơn nữa đồng thời cũng là một nghệ thuật mà người lãnh đạo mặt trận này được ví như nhạc trưởng tài ba vừa thông thạo nhạc lý, vừa có khả năng sử dụng một cách điêu luyện nhiều nhạc cụ, lại có uy tín đủ để tập họp được một tập thể nhạc công có tài... Và nghề điệp báo hay diễn viên điện ảnh cũng là cả một khoa học phức tạp không có tài thiên phú khó mà thành công. Cho nên phải nhìn nhận Hồ Chí Minh đã phải có chí lớn, có một lý tưởng mà ông tôn thờ, say mê nhắm tới mới có thể bền chí khổ công rèn luyện mà thành. Chỉ tiếc rằng lý tưởng của ông là ảo tưởng (của chủ nghĩa Mác-Lênin), và cái tài của ông đã được xử dụng để đánh lừa và nhấn chìm cả một dân tộc vào cảnh máu lửa triền miên.<br />Hồ Chí Minh đã có hàng trăm huyền thoại về cười, khóc, về cung cách thân mật, về lời lẽ ngọt ngào, về hành vi nhân ái… Giữa những huyền thoại đó, huyền thoại về đôi dép râu được nhắc lại không biết bao nhiêu lần như một chứng liệu về nếp sống giản dị và sự quên mình của Hồ Chí Minh. <br />Theo lời kể, Hồ Chí Minh gần như không khi nào rời đôi dép râu, kể cả khi đón tiếp quốc khách quan trọng như Mao Trạch Đông. Chuyện kể ngụ ý Hồ Chí Minh có tính tình giản dị và luôn tiết kiệm, nhất là có xu hướng gần gũi với người nghèo khổ. <br />Sau năm 2000 Lữ Phương còn say sưa kể lại chuyện này để đề cao lãnh tụ: “Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi dép đến mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ mãi không được, cậu phải lấy lén đôi dép ấy đi đổi. Khi phát hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại đôi dép cũ.” (20)<br />Nhưng Hồ Chí Minh trung thành với đôi dép râu tới mức đó chưa hẳn do ý hướng như người kể muốn nhắc. <br />Trên thực tế, chuyện đã gợi nhớ lời kể của Võ Nguyên Giáp: “Bác chỉ định mấy đồng chí cùng đi. Thấy một đồng chí mang dép, Bác bảo về nhà thay giày. Bác nói: Khi nào gặp “người ta”, tôi ăn mặc thế nào cứ mặc tôi, nhưng các chú thì phải cho tề chỉnh”. <br />Lời kể này diễn tả khá đầy đủ ý nghĩa việc Hồ Chí Minh nằng nặc đòi lại đôi dép cũ và đã phản ảnh sự việc không hề do bản tính tự nhiên mà có chủ ý rõ rệt. Mấy câu thơ của Nguyễn Chí Thiện trong Hoa Địa Ngục có lNUnknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159010568311082972006-09-23T21:21:00.000+10:002006-09-23T21:22:49.970+10:00* Chương 50* HỒ CHÍ MINH và Tito Việt Nam?Không chỉ riêng Neil Sheehan trưng dẫn ý kiến của nhà ngoại giao George Tabbott để cho rằng nếu các chính quyền Mỹ đừng ruồng rẫy Hồ Chí Minh thì ông ta đã có thể thành một thứ Tito của Việt Nam và như vậy đã tránh được chiến tranh. <br />Nhiều sử gia khác như Joseph Buttinger, Robert Shaplen, Stanley Karnow… cũng khẳng định tương tự. <br />Hai nhân vật này có gì giống nhau và khác nhau? <br />Hoàn cảnh hai đảng, hai nước cộng sản Nam Tư -Việt Nam như thế nào? <br />Và điều được các sử gia nói gần gũi ra sao với sự thật?<br />Josip Broz Tito sinh năm 1892 trẻ hơn Hồ Chí Minh 1 hoặc 2 tuổi (1) và mất năm 1980, sau Hồ Chí Minh 11 năm. <br />Tito được đào tạo tại Liên Xô, đã sống tại đây khoảng 7 năm. Hồ Chí Minh cũng được đào tạo tại Liên Xô và sống ở đây khoảng 5 năm. <br />Cả hai đều là lãnh tụ cộng sản, đến khi chết vẫn hãnh diện là đồ đệ trung kiên của Mác – Lênin. <br />Cả hai đều tàn sát những người khác chính kiến, đều áp dụng nguyên lý duy vật biện chứng trong cách hành xử, giành quyền bính bằng mọi giá. <br />Cả hai đều đề cao lý tưởng cách mạng vô sản, đều cổ võ tiến tới vô sản chuyên chính, lấy đó làm cứu cánh biện minh cho mọi hành động. <br />Trên thực tế, sau khi cả hai nắm được quyền lực, giai cấp vô sản tại cả hai quốc gia Nam Tư – Việt Nam lại bị thiệt thòi hơn hết. <br />Điểm khác biệt thứ nhất là Tito nhờ tách khỏi khối Cộng Sản Liên Xô nên được Tây phương viện trợ dồi dào khiến người dân Nam Tư có một chút tự do hơn, đỡ đói khổ hơn so với người dân Việt Nam. Điểm khác biệt thứ hai là Nam Tư không phải trải một cuộc chiến kéo dài ba mươi năm như Việt Nam. <br />Theo các sử gia trên, nếu Hồ Chí Minh trở thành Tito Việt Nam thì điểm khác biệt thứ hai chắc chắn không xẩy ra, tức là người dân Việt Nam không phải trải cảnh máu lửa, đồng thời các quốc gia Tây Phương như Pháp, đặc biệt là Mỹ không vướng vào chiến tranh như đã vướng. <br />Trở ngại lớn nhất khiến Hồ Chí Minh không thể biến thành Tito Việt Nam, theo các sử gia trên, là do các chính quyền Mỹ từ chối lời cầu thân của Hồ Chí Minh được đưa ra vào năm 1945. Sự từ chối khiến Hồ Chí Minh không còn chọn lựa nào khác ngoài việc chấp nhận dựa vào Liên Xô – Trung Cộng trong khi Mỹ theo đuổi đường lối ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng Cộng Sản trên thế giới.<br />Lập luận này nêu hai lý do trực tiếp đưa đến cuộc chiến Việt Nam: thứ nhất là nguyện vọng giải phóng dân tộc do Mặt Trận Việt Minh theo đuổi và thứ hai là mục tiêu chống Cộng của các chính quyền Mỹ. <br />Do mục tiêu chống Cộng, các chính quyền Mỹ đã hỗ trợ Pháp trở lại Việt Nam và do mục tiêu giải phóng dân tộc, Mặt Trận Việt Minh đã phát động kháng chiến với hậu quả kéo dài tới mãi năm 1975. <br />Những người nêu lập luận cho rằng cả hai lý do trên đều không xẩy ra nếu các chính quyền Mỹ chấp nhận lời cầu thân của Hồ Chí Minh. Bởi, trong trường hợp này, Pháp không có sự hỗ trợ của Mỹ sẽ phải tôn trọng nền độc lập của Việt Nam và Hồ Chí Minh được Mỹ nhận là đồng minh sẽ tách khỏi khối Cộng Sản, như Tito năm 1948. <br />Như thế, cả lý do giải phóng dân tộc lẫn lý do chống Cộng đều đã giải trừ và cuộc chiến Việt Nam không thể bùng nổ.<br />Robert Shaplen viết: “… Pháp và Mỹ, nhất là những nhà làm chính sách ở Paris, đã sai lầm lớn khi không thương lượng với Hồ Chí Minh một cách thực tiển hơn trong những năm 1945-46 là lúc ông ta rất có thể đã được biến thành Titô (Titofied), ngay trước khi chưa nghe ai nói đến Titô hay “chủ nghĩa Titô” (Titoism); và như vậy một loạt biến cố đã có thể khác đi và đã tránh được nhiều máu đổ; và ngày nay đã có được một nước Việt Nam thống nhất; ngay cả nếu có bị lãnh đạo bởi phe tả, thì vẫn trở thành bức tường ngăn chặn của khối quốc gia trung lập ở Đông Nam Á là những nước đang muốn tránh bị Trung Cộng thống trị”. (2)<br />Xóa bỏ các biến cố đã xẩy ra để thay thế bằng các biến cố giả tượng là việc làm hoàn toàn vô nghĩa, nhất là trong trường hợp sự giả tưởng chỉ theo suy diễn chủ quan dựa trên nền tảng là những sự việc vụn vặt mơ hồ được cố tình gán ghép một ý nghĩa nào đó. <br />Thực khó nghĩ là đang đối diện với một người nghiêm túc khi nghe người đó xác quyết chắc chắn tránh khỏi cuộc chiến Việt Nam, nếu chính quyền Mỹ hiểu như anh trung úy John nào đó rằng Hồ Chí Minh là người dịu ngọt kinh khủng, rằng Hồ Chí Minh từng viết thư cho tướng Trương Phát Khuê của Trung Hoa Dân Quốc hứa sẽ giúp tổ chức mạng lưới tình báo ở Đông Dương và rằng từng có vài người Mỹ nghĩ ông ta sẵn sàng đứng về phe Tây Phương… <br />Nhưng theo các tác giả Shaplen, Buttinger, Lacouture, Neil Sheehan… đây chính là những chứng liệu bằng vàng cho thấy lịch sử bắt buộc phải xoay chiều nếu giới lãnh đạo Mỹ không quá ngu để nhìn ra vào năm 1945! <br />Buttinger còn quả quyết: “Tôi có thể đi xa hơn nữa để nói rằng vì những lý do thúc bách của lịch sử, Hồ Chí Minh đã trở thành một người theo chủ nghĩa Titô hơn cả chính Titô”.<br />Những chứng liệu bằng vàng này cùng lập luận về lịch sử xoay chiều kể trên khó tránh dẫn đến những nụ cười dành cho một trình độ nhận thức chính trị mang nặng tính hài hước. <br />Tuy nhiên, cứ giả dụ Buttinger và các tác giả trên hoàn toàn có lý và cứ giả dụ các chính quyền Mỹ biết rõ Hồ Chí Minh là người dịu ngọt kinh khủng và bắt tay với ông ta thì thực tế Việt Nam sẽ ra sao? <br />Năm 1985, nữ học giả Anh, Nora Beloff viết tác phẩm Tito’s Flawed Legacy – Di sản có tỳ vết của Titô, (3) sau nhiều năm lui tới nghiên cứu tại chỗ về Nam Tư đã có một số ghi nhận đáng lưu ý, đại để như Ti Tô không đánh phát xít Đức bằng đánh phe quốc gia thân Tây Phương, trong đó có cộng đồng người Chetniks (4) mà lãnh tụ là nhà ái quốc Mihaelovic. Nhân vật này không tìm cách trốn ra ngoại quốc, sau khi cộng sản toàn thắng ở Nam Tư, ở lại tìm cách quy tụ người Serb chống Cộng. Ông bị bắt trong rừng, bị kết tội phản quốc và xử tử ngày 17-7-1947. (5) <br />Nữ tác giả Nora Beloff khẳng định Tito không phải nhà ái quốc. Ông ta luôn luôn đặt quyền lực và chủ nghĩa cộng sản trên tổ quốc. Nora Beloff cũng chê Churchill và Roosevelt ngây thơ, dễ tin khi xử trí với Tito, vì Tito theo đúng con đường của Stalin là độc đảng, độc tài, diệt đối lập, kể cả đồng chí như Djilas chẳng hạn. Tác giả nhắc lại lời Stalin khen tặng Tito sau thế chiến II về sự tàn bạo đối với phe đối lập: “Tito là ngọn tháp của sức mạnh. Ông ta đã quét sạch bọn chúng”. (6) Theo Nora Beloff, không nên nhìn Nam Tư qua màu kính hồng mà nên ủng hộ những ý kiến tiến bộ đang nảy nở trên đất nước này, tức là sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ tại đây.<br />Tito trở nên nổi tiếng và có danh từ chủ nghĩa Tito chỉ do quyết định tách khỏi tổ chức quốc tế Cộng Sản, không chịu đặt dưới sự lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế từ tháng 6-1948 (lúc ấy không còn mang tên Comintern mà trở thành Cominform – Phòng Thông Tin Quốc Tế Cộng Sản). <br />Hành động này rõ ràng xác định thế tự chủ, chống lại sự chi phối của Liên Xô nên được Tây Phương hỗ trợ. Nhờ vị trí Nam Tư ở giữa nhiều quốc gia thuộc khối Tây Phương như Ý, Áo, Hy Lạp và được Mỹ, Anh ủng hộ nên Stalin không đàn áp nổi phong trào ly khai này. Đây là trường hợp ly khai thành công duy nhất trong khối Cộng Sản Đông Âu.<br />Tito thành công trong việc thoát khỏi vòng kiềm tỏa Liên Xô và được báo chí thế giới lấy tên đặt tên cho một chủ thuyết chính trị mới là chủ nghĩa Tito. <br />Nhưng chủ nghĩa Tito là gì, đã mang lại gì cho đời sống của đất nước Nam Tư?<br />Nữ tác giả Nora Beloff xác định đó chỉ là con đường độc đảng, độc tài, diệt đối lập bất kể đồng chí hay người yêu nước, rập khuôn đúng chủ thuyết Stalin tàn bạo. <br />Điều mà Nora Beloff nêu lên đã được Milovan Djilas, nhân vật lãnh đạo thứ hai của Nam Tư sau Tito nêu lên từ cuối thập niên 1950. <br />Milovan Djilas là đồng chí kề cận, là bạn thân của Tito nhiều năm trong tranh đấu nhưng nhìn thấy Cộng Sản là một chủ nghĩa hoàn toàn không tưởng và cũng nhìn thấy Tito không thể từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản dù đã tách khỏi khối Cộng Sản Quốc Tế và được Tây Phương hỗ trợ. <br />Với vai trò phụ tá cho Tito, Milovan Djilas thấy rõ Tito vẫn tiếp tục là Cộng Sản và tiếp tục áp dụng chế độ Cộng Sản Mác – Lênin tại Nam Tư, bất chấp những hậu quả phản lại nguyện vọng nhân dân đồng thời di hại cho đất nước. <br />Theo Milovan Djilas, sở dĩ Tito bám lấy chủ nghĩa không tưởng này vì “nó tạo nên quyền lực của lãnh tụ cũng như nó đòi hỏi điều kiện tiên quyết là một đảng có kỷ luật tuyệt đối và một lãnh tụ độc tôn.” <br />Cho nên, dù ảnh hưởng viện trợ kinh tế Anh, Mỹ buộc Tito phải có một số nới lỏng trong chính sách cai trị so với Liên Xô, chế độ ở Nam Tư vẫn hoàn toàn là chế độ “chuyên chính vô sản”– dictatorship of the proletariat, nghĩa là chế độ độc tài toàn diện (7). <br />Các nhân vật đối lập vẫn bị bỏ tù, bị sát hại. Mọi mầm mống dân chủ hóa đều bị triệt tiêu. Tình trạng này không được miễn trừ ngay với Milovan Djilas, khi nhân vật này cho phổ biến tác phẩm Giai cấp mới năm 1957 mô tả tình trạng bất công trong xã hội Nam Tư, vì chế độ chính trị đã tạo ra một giai cấp đặc quyền đặc lợi, mặc tình tác oai, tác quái nhũng lạm, hà hiếp quần chúng để thâu đoạt lợi lộc cho bản thân. <br />Trên thực tế, Milovan Djilas không hô hào nổi dậy chống Tito, không kêu gọi lật đổ chế độ Cộng Sản. Milovan Djilas chỉ phân tích thực tế đời sống, nêu ra các mặt tệ hại không nên kéo dài để đề nghị tìm biện pháp cải tổ cần thiết hầu đem lại cho người dân những điều kiện dễ thở hơn đôi chút về cơm áo và tự do. Ngay lập tức, Milovan Djilas đã bị Tito lột hết quyền chức, tống vào nhà tù với tội danh “theo chủ nghĩa xét lại”.<br />Riêng cái tên tội danh chủ nghĩa xét lại gán cho Milovan Djilas đủ cho thấy không có sự khác biệt giữa chủ nghĩa Tito với chủ nghĩa Mác-Lênin, vì dù mang tên nào chủ nghĩa đó cũng không rời con đường độc tài thống trị, đặt dân chúng vào cảnh sống không còn một quyền hạn tối thiểu, ngoài phận sự phục tùng mọi chỉ thị của kẻ cầm quyền. <br />Trong chế độ đó, đối tượng phụng sự không phải đất nước, không phải nhân dân mà chỉ là cá nhân lãnh tụ với một thiểu số nô bộc xung quanh. <br />Milovan Djilas gọi thiểu số này là giai cấp mới, dựa theo uy quyền tối cao của lãnh tụ vun quén một cuộc sống phè phỡn thừa mứa trong khi đại đa số nhân dân quật quã trong áp bức, đói rét. Đây là luận cứ để nữ tác giả Nora Beloff nói Tito không phải người yêu nước vì luôn đặt quyền lực và chủ nghĩa Cộng Sản lên trên hết.<br />Về điểm này, chắc chắn không cần sự chấp nhận kết giao của các chính quyền Mỹ, không cần sự thương lượng thực tiễn của người Pháp, Hồ Chí Minh đã biến thành Tito từ trước khi có chủ nghĩa Tito. <br />Tito và Hồ Chí Minh là hai lãnh tụ có cùng một tính chất, có cùng một lý tưởng và cùng được rèn rũa kỹ lưỡng theo một đường lối hành động từ cùng một lò đào tạo. <br />Tito kiên trì theo đuổi chủ nghĩa Cộng Sản với chủ trương giành đoạt và duy trì quyền lực độc tôn bằng mọi giá. Cho nên, dù được Tây Phương hỗ trợ thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Liên Xô, Tito vẫn không rời chủ nghĩa Cộng Sản, tự phong là Tổng Thống trọn đời và tiếp tục củng cố địa vị bằng những biện pháp sắt máu bất kể hậu quả của những biện pháp này xô đẩy đời sống người dân Nam Tư vào cảnh ngộ bị đày đọa ra sao. Nói cách khác, Tito chỉ đam mê theo đuổi tham vọng cá nhân chứ không nghĩ đến quyền lợi của nhân dân Nam Tư. <br />Hồ Chí Minh không hề khác biệt Tito qua lời tán tụng của Krutshshev về sự tận tụy với chủ nghĩa Cộng Sản và qua thổ lộ của chính Hồ Chí Minh với Lucien Laurat : "Tôi luôn đứng về phía quyền lực. Chỉ có bộ phận này mới có thể hậu thuẫn được cho tôi." (8) <br />Thực tế Nam Tư qua diễn tả của Milovan Djilas và Nora Beloff cũng không khác biệt với diễn tả của Michel Tauriac về thực tế Việt Nam – một xã hội công an lúc nhúc như rắn rết, linh mục bị đàn áp, tăng sĩ bị tấn công, trẻ ăn xin đầy đường phố, giới trẻ không phương hướng, bắt giam người không cần xét xử, nhà văn bị cấm viết những gì cần viết, nhà báo nhận lệnh phải viết bất cứ thứ gì, quan chức tham ô nhét tiền đầy túi trong khi dân chúng luôn quằn quại với cái bụng trống không... (9) <br />Bùi Tín luôn kính trọng Hồ Chí Minh cũng thú nhận dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Việt Nam vắng bóng hẳn ba hạng người cần thiết cho đời sống là người phát triển kinh tế, người bảo vệ luật pháp và người thể hiện tự do. <br />Tất nhiên, sự vắng bóng ba loại người trên không do lịch sử thôi thúc, không do Pháp – Mỹ từ chối kết thân với Hồ Chí Minh mà chủ yếu khởi phát từ những biện pháp củng cố quyền lực của Hồ Chí Minh, tức từ nhu cầu thể hiện tham vọng cá nhân của lãnh tụ bao hàm trong chân lý mà lãnh tụ tôn thờ và đường lối hành động mà lãnh tụ chọn lựa. <br />Kết quả cụ thể là lãnh tụ trở thành thần thánh ngự trị trên ngai quyền lực còn quần chúng sống trong nghèo đói, bất công và áp chế. <br />Joseph Buttinger, Robert Shaplen, Stanley Karnow, Neil Sheehan… chê bai các chính quyền Pháp – Mỹ quá ngu dốt khăng khăng duy trì chính sách ngăn chống Cộng Sản đến nỗi bỏ lỡ cơ hội biến Hồ Chí Minh thành Tito đã cho thấy một khoảng trống trong kiến thức về Cộng Sản và về thực tế ở cả Việt Nam lẫn Nam Tư. <br />Vì trên thực tế, Hồ Chí Minh không khác Tito và chủ nghĩa Tito cũng chỉ là cái tên gọi khác của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Stalin hóa. <br />Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành Tito từ trước năm 1948 và rõ ràng còn Tito hơn cả Tito như Buttingger từng mong ước.<br />Tito tách khỏi vòng chi phối của Liên Xô nhưng vẫn đối xử với những người khác chính kiến theo cung cách của Stalin. Trong cuốn Tito (10), Milovan Djilas nhắc tới các trại tập trung nổi tiếng ở Goli Otok trong đó riêng số đảng viên bị giam giữ vì nghi ngờ phản đảng hay có khuynh hướng thân Liên Xô, còn luyến tiếc Phòng Thông Tin Quốc Tế Kominform đã có khoảng 15 ngàn người. Những người này thường xuyên bị tra tấn, có khi bị dúi đầu vào đống phân và khi được thả hầu hết không còn hình dạng người nữa. <br />Cảnh tù đầy không thiếu tại Việt Nam và đã được Tauriac lược thuật: “70 hoặc 80 người bị nhét vào một xà lim dành cho 20 người với một cái lỗ đào dưới đất để tiểu tiện, một chút nước với chút gạo đỏ trộn sạn làm thức ăn, nước uống nhiễm độc và rất hiếm hoi, không thuốc men, không một tấm mền che gió bấc lạnh thấu xương ở vài vùng, không thư từ, không thăm viếng ... Việc lao động khổ sai bất kể tuổi tác (nhiều khi cải tạo già hơn 70 tuổi) dưới mặt trời thiêu đốt hay trong gió mùa khốc liệt ... Kẻ hành hạ “không cần nghe nạn nhân giải thích lý do hành động của mình, cũng không cần nêu bất kỳ lý do nào để cho nạn nhân biết tại sao họ bị giết” … Cán bộ tuyên bố với tù nhân là mình được đào tạo để trừng trị cặn bã của xã hội tư bản bằng cách tận diệt chúng... Đảng đã ra lệnh như thế.” (11) <br />Trong A Dragon Embattled, Buttinger đã viết về việc Hồ Chí Minh thành lập Mặt Trận Liên Việt ngày 27-5-1946 như sau: “Thực ra Liên Việt chẳng là gì khác hơn một thứ siêu Việt Minh. Kẻ nào từ chối không chịu tham gia Mặt Trận Liên Việt sẽ bị tố cáo là chống độc lập dân chủ và bị dán cho nhãn hiệu phản động, để có thể bị giết ...” <br />Và, theo Buttinger, “điều khiến ông Hồ vui là tay chân của ông đã tiêu diệt được những đảng phái thân Trung Hoa – tức các đảng quốc gia đối lập”.<br />Vu cáo, tàn sát, giam giữ những người chống đối để củng cố quyền lực là hành vi quen thuộc của cả Tito lẫn Hồ Chí Minh không cần có điều kiện lịch sử thúc đẩy và không hề tùy thuộc thái độ của các nước Tây Phương. <br />Sự tương đồng giữa Tito và Hồ Chí Minh còn có trong cả đời sống cá nhân.<br />Theo Milovan Djilas, các bà vợ và tình nhân của Tito đều “đẹp một cách lạ lùng” và đều rất trẻ. Bà vợ đầu tiên kém Tito 9 tuổi, bà vợ thứ hai kém 12 tuổi, bà vợ thứ năm và cuối cùng kém 31 tuổi. Tất cả đều không được sống trọn đời với Tito. Ngay Jovanka Budisavljevic duyên dáng, đẹp tuyệt vời, kém Tito 31 tuổi, từng qua nhiều năm chăm sóc Tito với tư cách trợ lý, thư ký, bảo vệ... trước khi thành hôn, cũng bị Tito ruồng bỏ vào lúc ông đã ngoài 80 tuổi khiến không ai dám nhắc tới tên bà nữa.<br />Milovan Djilas vốn rất thân với Tito khi chưa ly khai và chưa bị bỏ tù nên biết nhiều về liên hệ gia đình của Tito, kể rằng khi Tito bị bệnh thập tử nhất sinh, bác sĩ Lavric đã tâm sự với Djilas là nếu không có Jovanka (lúc ấy còn vài năm nữa mới thành hôn với Tito) và một bà phước ở bên cạnh để săn sóc bệnh nhân thì bác sĩ đã không dám tiến hành giải phẫu. <br />Jovanka yêu Tito đến độ tận tụy với nhiệm vụ như một bà phước, nhưng chẳng những bị Tito ruồng rẫy vào những năm cuối đời mà ngay khi mới lấy nhau cũng không được Tito đối xử một cách xứng đáng. Trong tác phẩm mang tựa đề Tito, Djilas viết về cuộc hôn nhân này như sau: “Cuộc hôn phối thật bất hạnh và tàn phá, đặc biệt đối với Jovanka. Bà không có cuộc sống riêng bên ngoài nhóm cận thần của Tito và công việc tẻ nhạt thường ngày theo nhiệm vụ của bà. Nhiều buổi tối khi chúng tôi đến thăm Tito, chúng tôi đã thấy bà phải ngồi ở lối đi của sảnh đường để canh chừng cùng với đoàn hộ tống của chồng cho đến khi Tito đi ngủ. Trong hoàn cảnh đó, sự thèm muốn và đố kỵ, sự ngờ vực từ phía những người xung quanh là điều không thể tránh. Sự thân mật giữa bà với Tito sẽ có thể bị giải thích bằng nhiều cách khác nhau, bất lợi và bất công cho bà, như: hám danh, bợ đỡ, hai lòng, đa dâm, lợi dụng sự cô đơn của Tito, tham lam. Đôi khi nhân viên an ninh, vì ác tâm hoặc nghi ngờ đã bắt bà phải ăn thử trước những món ăn mà bà nấu cho chồng với tất cả tình yêu của mình.” (12) <br />Bà vợ thứ hai có một sắc đẹp quý phái trưởng giả, tên Harta Hass, kém Tito 12 tuổi, đã bị Tito ruồng rẫy để lấy bà thứ ba là Zdenka. Harta từng khóc nức nở trên vai Milovan Djilas khi nghe tin Tito bỏ bà để gắn bó với Zdenka.<br />Về mặt này hiển nhiên Hồ Chí Minh không thua kém Tito. Tăng Tuyết Minh cũng rất chung tình, đảm đang, chăm lo cho chồng nhưng chỉ được ở với chồng một thời gian ngắn. Khi Hồ Chí Minh thành công, trở thành Chủ Tịch Nhà Nước đã tuyệt nhiên không nhớ tới cô nữa, dù nhiều lần cô gửi thư, nhờ cả tòa đại sứ Cộng Sản Việt Nam ở Bắc Kinh và các nhà lãnh đạo Trung Quốc can thiệp. <br />Rồi Nông Thị Xuân cũng rất đẹp, rất trẻ, kém Hồ Chí Minh trên 40 tuổi, có con với Hồ Chí Minh đã bị ruồng rẫy và hạ sát thê thảm. Những người khác như Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ Thị Lạc vv… dù đã có con với Hồ Chí Minh cũng bị đẩy ra xa kể như không quen biết.<br />Về phương diện này, Hồ Chí Minh khác với Tito là có nhiều mối tình và có số lượng phụ nữ ở bên cạnh đông hơn. Một điểm khác nữa là Tito xử sự tương đối công khai, không lén lút, giả đạo đức. Tito không che giấu chuyện tình cảm, không ra lệnh cho Đảng che giấu giùm để tạo huyền thoại hy sinh trọn đời cho cách mạng giải phóng dân tộc, quên hết tình cảm bản thân.... <br />Giữa Tito và Hồ Chí Minh cũng còn một khác biệt trong đời sống riêng. Cả thế giới đều biết Tito rất thích ở nhà đẹp và sang trọng. Chỗ ở của Tito thường là những lâu đài vua chúa thời xưa. Tito còn bỏ công quỹ xây thêm một tư dinh vĩ đại theo kiểu tối tân. Riêng Hồ Chí Minh không chiếm Phủ Toàn Quyền cũ hay Tòa Khâm Sứ mà chỉ cho làm một ngôi nhà gỗ bên cạnh. Về căn nhà này, Hoàng Quốc Kỳ đã châm biếm, mỉa mai là tấn kịch giả dối vụng về với dụng ý tuyên truyền cho tính giản dị và gần gũi dân chúng. Dù sao, đây cũng là sự khác biệt của Hồ Chí Minh so với Tito. <br />Những khác biệt hoặc tương đồng về đời sống riêng tư chắc chắn không quan trọng đủ khiến có sự tiếc rẻ cho việc Pháp - Mỹ đã bỏ lỡ cơ hội biến Hồ Chí Minh thành Tito để xoay chiều lịch sử theo một hướng khác.<br />Thực ra, cơ hội đó thực sự có hay không? <br />Luận cứ thứ nhất do Jean Lacouture đưa ra để chứng minh cho cơ hội này là sự đặc biệt lưu tâm của Hồ Chí Minh tới nước Mỹ và chính trị Mỹ. Theo Jean Lacouture, Hồ Chí Minh từng tới Mỹ vào khoảng 1915-1916; từng gửi yêu sách 8 điểm cho hội nghị Versailles do sáng kiến của Tổng Thống Mỹ Willson vào tháng 6-1919; từng giúp viên phi công Shaw của Mỹ bị rớt máy bay tại Cao Bằng cuối năm 1944 rồi sau đó cộng tác với toán đặc vụ tình báo Mỹ OSS tại Hoa Nam để được giúp đỡ về võ khí, từng trích Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ vào Tuyên Ngôn Độc Lập Việt Nam đọc ngày 2-9-1945; khi ở tù làm thơ từng nhắc đến tên ứng cử viên tổng thống Mỹ Wendell Willkie; từng nghiên cứu Tam Dân Chủ Nghĩa vì Tôn Dật Tiên nói đến Abraham Lincoln; từng lưu tâm tới chính sách chống thực dân của tổng thống Mỹ Roosevelt và tại Hà Nội thời 1945-46 đã có một hội Hữu Nghị Việt Mỹ, đồng thời trên khắp phố phường luôn xuất hiện cờ Mỹ và nhiều biểu ngữ bằng tiếng Anh, chứ không có biểu ngữ nào bằng tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa, hay tiếng Nga vv... <br />Có thể kể thêm hàng loạt những sự kiện loại này, nhưng nếu cho đây là bằng chứng cụ thể về sự thành tâm muốn kết thân với Mỹ, muốn trở thành đồng minh của Mỹ thì rõ ràng đã quá cường điệu hóa. Vì hết thẩy đều vụn vặt và nặng tính cá nhân không đủ tầm vóc biểu hiện một chính sách quốc gia, thậm chí vô nghĩa, chẳng hạn việc Hồ Chí Minh từng đặt chân lên đất Mỹ, việc Hồ Chí Minh khi còn tham gia nhóm Phan Chu Trinh gửi yêu sách 8 điểm cho hội nghị Versailles, việc tương quan với nhóm tình báo đặc vụ Mỹ tại Hoa Nam, một câu thơ viết trong tù hay cờ Mỹ tung bay tại Hà Nội… Các sự kiện này đã được gán cho cái ý nghĩa mà bản thân không đủ tầm vóc chứa đựng. <br />Luận cứ thứ hai được nhắc tới là bản tính dịu ngọt, mềm mỏng và ý hướng của Hồ Chí Minh muốn kết thân với Mỹ theo ghi nhận của một số nhân viên tình báo đặc vụ Mỹ OSS từng có mặt một thời gian tại vùng Việt Bắc, đặc biệt là thái độ thân hữu của các cán bộ lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh biểu hiện bằng hành vi Võ Nguyên Giáp đã đứng nghiêm đưa nắm tay chào khi nghe cử bản quốc thiều Mỹ… <br />Nêu tính nết con người và cách xã giao giữa một số cá nhân để suy luận đã có cơ hội bằng vàng xoay chiều lịch sử là vấn đề cần xét lại về tính nghiêm túc. <br />Nhưng Duiker vẫn dựa theo đó và nêu thêm mấy lá thư Hồ Chí Minh nhờ gửi tới nhà cầm quyền Mỹ đương thời. <br />Lá thư thứ nhất viết đầu tháng 5-1945 nhờ thiếu tá Patti chuyển cho phái đoàn Mỹ tại Hội Nghị Liên Hiệp Quốc. Nội dung thư kêu gọi Hội Nghị trên ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, ký tên Đảng Quốc Dân Đông Dương. <br />Lá thư thứ hai nhân danh Mặt Trận Việt Minh viết ngày 15-8-1945 gửi cho trung úy Mỹ tên John nhờ chuyển về Bộ Chỉ Huy của ông ta với nội dung như sau: “Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng của Mặt Trận Việt Minh yêu cầu nhà cầm quyền Hoa Kỳ báo cho Liên Hiệp Quốc rằng chúng tôi đã đứng về phía Liên Hiệp Quốc chống lại bọn Nhật. Nay bọn Nhật đã đầu hàng. Chúng tôi yêu cầu Liên Hiệp Quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập.” (13) <br />Sau đó, từ 29-9-1945 tới 16-2-1946, Hồ Chí Minh gửi thư 7 lần gồm 2 lần gửi Ngoại Trưởng James Byrnes và 5 lần gửi Tổng Thống Truman. Trong 7 lá thư này, 4 lá lập lại nội dung 2 lá thư nhờ các sĩ quan OSS chuyển và 3 lần gửi vào ngày 18-10-1945, 18-1-1946, 16-2-1946 còn gửi chung cho các nhà lãnh đạo Anh, Hoa, Nga. <br />Nội dung riêng biệt chỉ có trong 3 lá thư ngày 1-11-1945, 29-9-1945 và 9-11-1945. <br />Thư ngày 1-11-1945 gửi Ngoại Trưởng Mỹ James Byrnes, Hồ Chí Minh nhân danh chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đề nghị “được gửi phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để thiết lập quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ và xúc tiến việc nghiên cứu kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lãnh vực chuyên môn khác”. (14)<br />Thư ngày 29-9-1945, gửi Tổng Thống Truman, Hồ Chí Minh ngỏ lời phân ưu về trường hợp trung tá OSS Mỹ Dewey bị hạ sát tại Sài Gòn ngày 26-9-1945. <br />Thư ngày 9-11-1945, gửi Tổng Thống Truman, Hồ Chí Minh tả về cảnh đói của dân chúng Việt Nam, xin được Mỹ viện trợ và giúp ngăn chặn quân Pháp trở lại Việt Nam. Lời yêu cầu giúp ngăn chặn quân Pháp cũng được Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng Giới Thạch trong các lá thư khác.<br />Trong cùng thời điểm đó, theo ghi nhận của Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh vẫn không ngừng nhắc mọi người rằng “Hồng Quân Trung Hoa mới là bạn của ta. Quân đội Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch chính là kẻ thù của nhân dân và cách mạng Trung Quốc, cũng là kẻ thù của nhân dân và cách mạng Việt Nam” (15) <br />Như vậy, những lá thư trên không dễ coi là bằng cớ cho ý muốn thành thực kết thân.Võ Nguyên Giáp cũng nói rõ dụng tâm che giấu thực chất Cộng Sản trong thời gian này: “Đầu tháng Chín, Bác ra mắt nhân dân với danh hiệu Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Đó là một bí danh Bác đã dùng mấy năm trước để che mắt bọn Quốc Đân Đảng Trung Hoa. Những người cách mạng đã qua thời kỳ ẩn náu, lẩn tránh, về sống giữa đồng bào, nhưng mọi hoạt động của Đảng vẫn tiến hành theo phương thức bí mật … Hầu hết đảng viên đều công tác dưới danh nghĩa cán bộ Việt Minh” (16) <br />Vì thế, hai lá thư gửi tới các giới chức Mỹ qua sự chuyển giao của thiếu tá Patti và trung úy John đều nhấn mạnh mục tiêu tranh thủ độc lập cho dân tộc và còn ẩn danh dưới một đoàn thể không hề có mặt trên thực tế là Đảng Quốc Dân Đông Dương. Yếu tố thành tâm mà Duiker và nhiều người khác nhắc tới là điều hết sức đáng ngờ. <br />Nói về cùng sự kiện này, Bernard Fall cho rằng Hồ Chí Minh cố tình tỏ ra thân Mỹ chỉ với mục đích mong được tiếp trợ về võ khí và hư trương là được phe Đồng Minh công nhận hầu che kín thực chất Cộng Sản trong sự vận dụng chiêu bài giải phóng dân tộc đối với quần chúng và các phe phái chính trị đương thời. <br />Tiết lộ của Cựu Hoàng Bảo Đại vào đầu thập niên 1990 xác nhận quan điểm của Bernard Fall rất gần thực tế. <br />Trước khi qua đời, Cựu Hoàng Bảo Đại đã gián tiếp thú nhận mình lầm khi nói với một nhà báo về lý do thoái vị trao quyền cho Hồ Chí Minh như sau: “Lúc ấy tôi chỉ biết Hồ Chí Minh có chí hướng quốc gia muốn mưu tìm độc lập, thống nhất cho Việt Nam. Hồ Chí Minh được giới thiệu như người cộng tác với Đồng Minh và được đại tá Patti trong tổ chức OSS ở Vân Nam của Mỹ ủng hộ.” (17) <br />Dù sao, tất cả đều trở thành việc đã rồi. <br />Tuy nhiên cứ giả dụ lịch sử thực sự xoay chiều khiến Hồ Chí Minh trở thành Tito Việt Nam thì có tránh được cái hậu quả thảm khốc cho nhân dân Việt Nam và cho cả thế giới như W.J. Duiker và một số tác giả khác đã nói không? <br />Điều kiện xoay chiều lịch sử được nêu ra chỉ đơn giản là Tổng Thống Truman chấp thuận ủng hộ Hồ Chí Minh. Có điều kiện này, Pháp không thể đưa quân trở lại Việt Nam khiến bùng nổ cuộc chiến 1945–1954 và Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, nằm ngoài vòng chi phối của Liên Xô nên Mỹ không cần đưa quân tới chống Cộng Sản kéo dài cuộc chiến thêm 20 năm. Nền tảng của xác quyết này hết sức mong manh vì chỉ là sự phán đoán về thái độ của cả Pháp lẫn Hồ Chí Minh theo chủ quan. <br />Trên thực tế, sau khi Pétain chính thức đầu hàng Đức ngày 22-6-1940, ảnh hưởng Nhật bao trùm khắp Đông Dương nhưng chính quyền tại đây vẫn nằm trong tay Pháp. <br />Năm 1943, trước và sau cuộc đổ bộ Phi Châu của đồng minh, lực lượng kháng chiến Pháp do De Gaulle lãnh đạo đã có nhiều nỗ lực ngoại giao cùng các hành động chuẩn bị tiếp tục duy trì chủ quyền tại Đông Dương. <br />Ngày 8-12-1943, De Gaulle công bố chính sách đối với các quốc gia Đông Dương với lời hứa hẹn “từng bước trao trả quyền tự trị” cho vùng đất này, tuy nhiên lại lập Ủy Ban Hành Động Giải Phóng Đông Dương – Comité d’Action pour la Libération de l’Indochine, lập Lực Lượng Viễn Chinh Pháp ở Đông Dương - Forces Expéditionnaires Francaises d’Extrême-Orient và cử tướng Mordant làm Cao Ủy Đông Dương. <br />Suốt thời gian này, các giới lãnh đạo Mỹ thường chống lại quan điểm của De Gaulle về Đông Dương mà kết quả cụ thể là Hội Nghị Cairo tháng 11-1943 và đặc biệt là hội nghị Postdam tháng 7-1945 không dành cho Pháp vai trò nào tại Đông Nam Á, dù ngày 24-3-1945, De Gaulle đã công bố một số cải cách trong chính sách về Đông Dương với các điểm sau:<br />– Liên bang Đông Dương sẽ được thành lập bao gồm 5 xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Miên và nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.<br />– Liên bang sẽ có một Quốc Hội do dân cử thông qua các cuộc đầu phiếu tự do và có quyền tự trị về kinh tế tài chính.<br />– Liên bang được lãnh đạo bởi một Chính Phủ với thành phần nhân sự gồm một nửa là người bản xứ, do một toàn quyền Pháp lãnh đạo. Pháp sẽ thay mặt cho liên bang trong các hoạt động ngoại giao.<br />– Liên bang sẽ được trao trả quyền tự trị chính trị sau một thời gian tùy thực tế.<br />Chính sách trên không được Mỹ tán thành nhưng De Gaulle tiếp tục đi tới. Ngày 15-8-1945, đô đốc D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương thay tướng Mordant trong khi Bộ Quốc Phòng Pháp đưa một số đơn vị đang đóng tại Đức vào Lực Lượng Viễn Chinh Đông Dương. <br />Hai ngày sau, tướng Leclerc tới Ấn Độ trực tiếp vận động Anh giúp đỡ đưa một số đơn vị biệt kích Pháp đổ bộ Sài Gòn. <br />Ngày 24-8-1945, trong dịp chính thức viếng thăm Mỹ, De Gaulle tuyên bố thẳng tại Hoa Thịnh Đốn: “Thế kỷ 20 này là thế kỷ độc lập của mọi dân tộc kể cả các quốc gia thuộc địa, nhưng điều này chưa thể xẩy ra ngay tại Viễn Đông… Chính sách của Pháp đối với các xứ Đông Dương trong lúc này là phải xác lập chủ quyền tại đây”. (18) <br />Kết quả là ngày 23-9-1945, chiến tranh Việt – Pháp bùng nổ tại Sài Gòn, trước khi Hồ Chí Minh gửi thư chính thức cho Bộ Ngoại Giao và Tổng Thống Mỹ. <br />Nếu Truman chấp nhận xiết tay Hồ Chí Minh thì cuộc chiến cũng đã mở màn và thực tế cho thấy cái xiết tay này khó có uy lực buộc Pháp thay đổi đường lối mà De Gaulle vạch ra từ mấy năm trước với những chuẩn bị ráo riết để sẵn sàng tiến hành. Bởi ngay khi đưa quân trở lại Đông Dương, De Gaulle vẫn phải chống chọi với thái độ phản đối của Mỹ và tỏ ra không hề nao núng.<br />Về phần Hồ Chí Minh sẽ có thái độ nào đối với Mỹ, có thực sự trở thành đồng minh của Mỹ và sẵn sàng tách khỏi khối Liên Xô không? <br />Sau khi Stalin tuyên bố giải tán Đệ Tam Quốc Tế, Tổng Bí Thư Trường Chinh đã đưa ra chỉ thị ngày15-7-1943: “Vô luận trong tình thế nào, những người Cộng Sản Đông Dương cũng không được sao lãng việc tuyên truyền chủ nghĩa Cộng Sản và việc phát triển tổ chức Đảng… không được hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, coi thường nhiệm vụ Đảng hoặc làm lu mờ sứ mệnh thiêng liêng của giai cấp vô sản Đông Dương” (19) <br />Trong lúc Hồ Chí Minh gửi thư tỏ ý muốn kết thân với Mỹ và tuyên bố giải tán Đảng, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tiếp tục đưa ra chỉ thị ngày 25-11-1945 nêu rõ: “Kẻ thù cụ thể trước mắt lúc này là bọn phản động Pháp. Chúng chủ trương câu kết với đế quốc Mỹ và đế quốc Anh để bao vây Liên Xô”. <br />Đồng thời, đường lối tuyên truyền và ngoại giao của Đảng theo chỉ thị của Hồ Chí Minh là “phải lợi dụng sự mâu thuẫn của Trung Hoa – Mỹ và Anh – Đờ Gôn”. Chính vì thế, Võ Nguyên Giáp không tiếc lời xỉ vả Nguyễn Tường Tam do chủ trương tìm sự giúp đỡ từ phía Mỹ. Vào lúc Hồ Chí Minh ve vuốt các quân nhân Mỹ có mặt ở Hà Nội, gửi thư tới giới lãnh đạo Mỹ thì Võ Nguyên Giáp kết án mọi xu hướng ngả về phía Mỹ: “Những phần tử phản động của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong chính phủ liên hiệp chủ trương nên tìm chỗ dựa ở Tưởng và Mỹ. Ngày 12 tháng Ba, Nguyễn Tường Tam tới Bộ Ngoại Giao nhận chức, tuyên bố: “Trung Hoa và Mỹ có nhiệm vụ duy trì nền hòa bình ở Viễn Đông”. Y luôn luôn nhắc tới việc cần liên hệ với Mỹ, cần tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ…” (20) <br />Nguyễn Tường Tam bị kết án vì thực sự muốn kết thân với Mỹ, trong khi đảng Cộng Sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh luôn coi Mỹ-Anh là đế quốc thù địch với Liên Xô và chỉ muốn khai thác tình thế đương thời để lợi dụng Mỹ thôi. Ý nghĩa thực của những diễn biến trên chỉ có thể ghi nhận như thế.<br />Cho nên Tưởng Vĩnh Kính từng nhận định: “Hành động "liên kết với Mỹ" và "bài Hoa" của ông Hồ và Mặt Trận Việt Minh hoàn toàn đặt cơ sở trên nỗi thao thức về vấn đề sinh tồn và phát triển của bản thân họ", bởi Hồ Chí Minh luôn trung thành với điều đã ghi trong tác phẩm Con Đường Kách Mệnh: "Một là, nhiệm vụ cách mạng không phải vì một thiểu số người nào mà vì quảng đại giai cấp công nhân và quần chúng nông dân, do đó cần phải tổ chức quần chúng. Hai là, cách mạng tất yếu phải chịu sự chỉ huy của chủ nghĩa Mác Lênin. Ba là, cuộc vận động cách mạng ở mỗi quốc gia phải được kết hợp chặt chẽ với giai cấp vô sản quốc tế; công nhân và quần chúng nông dân phải phân biệt rõ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế.” <br />Theo Tưởng Vĩnh Kính, mục đích tối hậu của Hồ Chí Minh là đoạt chính quyền để tiến hành cách mạng vô sản quốc tế nên nỗi thao thức chính yếu lúc đó không phải vấn đề "có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không”, mà là vấn đề "bản thân Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không...” (21)<br />Khi đặt vấn đề Hồ Chí Minh là người quốc gia hay Cộng Sản, Bùi Tín cũng phát biểu: “Thật ra ông Hồ Chí Minh ít có chính kiến riêng về đường lối chính trị. Đến tinh thần dân tộc trong tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin như ông Tito ở Nam Tư, ông Hồ cũng không có. Ông tuyệt đối tin ở đường lối và kinh nghiệm của Liên Xô, không một chút phê phán, với thái độ giáo điều”. (22) <br />Một người hoàn toàn tin tưởng ở Liên Xô như thế và với chủ trương, đường lối đã được thực tế biểu thị như thế hẳn khó sẵn sàng từ bỏ Liên Xô để trở thành đồng minh của Mỹ. <br />Thực ra, trường hợp Tito ngả về phía Tây Phương đã xẩy ra trong khung cảnh hoàn toàn khác với khung cảnh Việt Nam. <br />Tito lúc đó không được Stalin tin cậy và trở thành đối tượng cần loại trừ. Trong tình thế hiểm nghèo, Tito tách khỏi Cominform, thối thân của Comintern cũ, cả hai hoàn toàn do Liên xô chi phối. Sự hỗ trợ của Anh – Mỹ chỉ đơn giản là hành vi đáp ứng trước một thực tế hiển nhiên. <br />Với Hồ Chí Minh, sự việc chỉ nằm trong vòng dự đoán qua những lá thư hoàn toàn mập mờ trong khi các nguồn tin do Bộ Ngoại Giao Mỹ tiếp nhận không hề ngờ vực về tương quan giữa Hồ Chí Minh với Liên Xô. <br />Vì vậy, dù vẫn theo đuổi các nỗ lực ngoại giao nhắm thúc đẩy hai phía giải quyết vấn đề Đông Dương bằng thương thuyết, chính quyền Mỹ đã không thể hoàn toàn loại bỏ mối lo ngại Liên Xô sẽ mở một đầu cầu tại Đông Nam Á nên Mỹ không thể dứt khoát nghiêng về phía nào. <br />Các viên chức trong Đông Nam Á Sự Vụ của Bộ Ngoại Giao Mỹ như Moffat, Landon ngay từ những ngày đầu năm 1946 đã nhiều lần lui tới Sài Gòn, Hà Nội gặp gỡ D’Argenlieu và Hồ Chí Minh nhưng không tìm được điều kiện dung hòa. <br />Trở ngại lớn nhất là cả hai phía Pháp và Hồ Chí Minh đều có những dự tính nằm ngoài các vấn đề thường được nêu ra trong thương thuyết. Theo đánh giá của Bộ Ngoại Giao Mỹ, đặc biệt là của Phụ Tá Ngoại Trưởng Dean Acheson, Hồ Chí Minh liên hệ mật thiết với Mạc Tư Khoa và Diên An nên sẽ cố giữ thế toàn quyền hành động để tiến tới bành trướng ảnh hưởng Cộng Sản trong tương lai. <br />Ngược lại, Pháp luôn ngờ vực về sự thành thực của đối phương và cũng muốn tái lập chế độ bảo hộ. Thực ra, ngay từ thời điểm đó, việc kéo Hồ Chí Minh về phía Tây Phương đã được nghĩ tới qua ghi nhận của lãnh sự Mỹ Reed tại Sài Gòn trong báo cáo với Bộ Ngoại Giao Mỹ là thái độ trung lập của Mỹ đối với vấn đề Đông Dương có thể khiến Hồ Chí Minh ngả về phía Liên Xô. Thông báo ngày 16-12-1946 của Ngoại Trưởng Byrnes gửi các đại sứ Mỹ xác nhận mối liên hệ chặt chẽ với Đệ Tam Quốc Tế của Hồ Chí Minh có thể coi như lời giải đáp. <br />Vấn đề có thể hiểu là không làm được chứ không phải bỏ lỡ không chịu làm. (23)<br />Một điểm so sánh đáng kể khác giữa Hồ Chí Minh và Tito, là “Tito tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh thần dân tộc”, như Bùi Tín đã nhận định, trong khi “Hồ Chí Minh là tông đồ nhiệt thành của tín ngưỡng Cộng Sản” theo mô tả của Krutshchev. <br />Hồ Chí Minh và Tito không hoàn toàn giống nhau về tương quan với Cộng Sản, tuy cả hai đều trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và Stalin. Tito vận dụng chủ nghĩa Cộng Sản như một phương tiện củng cố quyền lực và giới hạn trong phạm vi một quốc gia còn Hồ Chí Minh say sưa với giấc mơ tiến tới nền chuyên chính vô sản trên toàn thế giới. <br />Trên thực tế, Hồ Chí Minh được người lãnh đạo tối cao là Stalin tin cậy còn Tito thì ngược lại. Vào lúc Tito cảm thấy tính mạng và địa vị bị đe dọa thì Hồ Chí Minh hoàn toàn thoải mái, nên giữa cảnh ngộ khó khăn của Việt Nam 1945 vẫn đặt nặng vấn đề bảo vệ Liên Xô qua lời Võ Nguyên Giáp: “Kẻ thù cụ thể trước mắt lúc này là bọn phản động Pháp… câu kết với đế quốc Mỹ và đế quốc Anh để bao vây Liên Xô”. (24) <br />Trong nỗi thao thức của Hồ Chí Minh, Liên Xô lớn hơn Việt Nam và vấn đề đoạt thủ quyền lực cho đảng Cộng Sản lớn hơn nền độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh không nhìn Liên Xô như một quốc gia mà như một mục tiêu phụng sự. Đây không phải ý nghĩ chủ quan của Tưởng Vĩnh Kính mà là tiếng nói cất lên từ những diễn biến thực tế đã có. <br />Cho nên, Cộng Sản Việt Nam nguyền rủa Tito là “phản bội để kiếm đô-la Mỹ” và Hồ Chí Minh đã làm một việc hết sức bất thường là đả kích Tito liền ngay sau ngày 22-2-1950 là ngày Nam Tư công bố sẵn sàng lập bang giao với Việt Nam theo Hồ Chí Minh yêu cầu. <br />Trong cuốn Tito (25), Vladimir Dedijer cho rằng việc Hồ Chí Minh yêu cầu Nam Tư công nhận Việt Nam chỉ là thủ đoạn của Liên Xô nhắm đẩy Tito vào thế khó khăn trong bang giao với Pháp, Mỹ do Hồ Chí Minh được lệnh thực hiện. <br />Liệu chỉ bằng một cử chỉ bắt tay thân thiện, Tổng Thống Mỹ Truman có thể biến đổi hoàn toàn con người Hồ Chí Minh như thế thành thù địch với Liên Xô như Tito không? <br />Câu trả lời thuận tình nhất khó tránh là một câu phủ định.<br />Từ lời nói, từ việc làm, Hồ Chí Minh luôn chứng tỏ chỉ muốn lợi dụng Mỹ để tranh thủ các mục tiêu của mình như đã từng lợi dụng Trung Hoa Dân Quốc, lợi dụng các đảng phái quốc gia và lợi dụng chiêu bài giải phóng dân tộc. <br />Do đó, nếu Truman bắt tay Hồ Chí Minh thì cũng chỉ có nhiều triển vọng là thêm một nạn nhân sập bẫy, không hơn không kém. Trong trường hợp này, Hồ Chí Minh có thể dễ dàng hơn trong việc củng cố quyền hành cho bản thân và đảng Cộng Sản Đông Dương để mau chóng tiến hành “nhiệm vụ quốc tế” tại Đông Nam Á là quét sạch ảnh hưởng chủ nghĩa tư bản tại đây.<br />Như thế, có thể Mỹ sẽ phải đối đầu với một cuộc chiến khốc liệt hơn và Việt Nam còn có thể biến thành cuộc chiến toàn cầu gây chết chóc nhiều hơn nữa.<br />Nhưng cứ giả sử Hồ Chí Minh dám tách khỏi Liên Xô như Tito và Mỹ tránh được cuộc chiến tại Việt Nam thì nhân dân Việt Nam hiển nhiên vẫn phải sống dưới một chế độ độc tài sắt máu. Vì Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam cũng giống như Tito và “Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư” (26) vẫn theo chủ nghĩa cộng sản, vẫn áp dụng chế độ độc đảng, vẫn tàn sát những người không chịu cúi đầu tuân phục… <br />Tổng thống trọn đời Tito đã đem lại cho đất nước Nam Tư cuộc sống đầy bất công và áp bức. <br />Thực tế Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh không khác bao nhiêu. Dù có cái bắt tay của Truman hay không, lịch sử vẫn đã xoay theo đúng hướng của nó. <br /> <br />CHÚ THÍCH <br />CHƯƠNG 50<br />__________________________<br />(01) Theo tài liệu chính thức, Hồ Chí Minh sinh năm 1890. Nhưng cũng có những tài liệu khả tín khác nói Hồ Chí Minh tuổi con Mèo tức sinh năm Tân Mão, 1891. Riêng tài liệu hộ tịch của làng Kim Liên, theo sử gia Daniel Hemery, ghi Hồ Chí Minh sinh năm 1894.<br />(02) The Lost Revolution – Robert Shaplen - tr. 28. <br />(03) Nxb Westview Press, Colorado 1985.<br />(04) Thuộc chủng tộc Serb, trong khi Tito người gốc Croat.<br />(05) Trong thế chiến II, quân đội Chetniks (thuộc sắc dân Serbia) của Mihaelovic bị cộng quân tấn công tàn sát dữ quá, đã có lúc phải tạm dựa vào quân Đức, nhưng vẫn được quân Anh kháng Đức tiếp tế, yểm trợ. <br />(06) Theo Milovan Djilas trong cuốn Tito, Stalin nói câu này vào lúc khiển trách phái đoàn Ba Lan về sự do dự yếu kém của cộng đảng Ba Lan đối với phe đối lập. Một nhà ngoại giao rất trẻ thuộc đảng CS Ba Lan kể lại cho tác giả khi ngồi trên xe với ông – SĐD tr. 39. <br />(07) Chúng tôi không dùng từ “toàn trị” để dịch từ “totalitarian regime”, vì nó không lột hết nghĩa chuyên chế, cực quyền mà còn có thể gây hiểu lầm là một chế độ cai trị tốt (toàn hảo, toàn thiện).<br />(08) Theo Bùi Xuân Quang - Xin đọc chương về Nhóm Đường Mới.<br />(09) Bản dịch Anh ngữ xuất bản tại Hoa Kỳ 1980, tr. 71- 91<br />(10)-(12) Viêt Nam, le dossier noir du communisme – Michel Tauriac, Bản Việt ngữ, tr.308, 45<br />(11) SĐD tr. 144-145<br />(13)-(14) BNTS – T. 2 tr. 228, 261, 57<br />(15)-(16)-(20)- (24) Những năm tháng không thể nào quên – Võ Nguyên Giáp, tr. 30, 68-69, 19, 183<br />(17) Diễn Đàn Phụ Nữ, tháng 9-1992 – Bài phỏng vấn của ký giả Phan Thế Trường.<br />(18)-(19) Việt Nam những sự kiện lịch sử –Dương Trung Quốc, tr. 417, 366<br />(21) Hồ Chí Minh tại Trung Quốc – Tưởng Vĩnh Kính , tr. 361<br />(22) Mặt thật – Thành Tín, tr. 99<br />(23) Nội dung thông báo của James Byrnes cho biết Hồ Chí Minh tương quan mật thiết với Liên Xô và hướng nhắm của Hồ Chí Minh trong “giai đoạn đầu là thực hiện một quốc gia độc lập rồi tiến tới Cộng Sản hóa”– Theo Việt Nam niên biểu – Chính Đạo, tr. 369 <br />(25) Nxb Simon and Schuster, New York 1953. <br />(26) Danh xưng của cộng đảng Nam Tư kể từ sau đại hội 6 của đảng này vào năm 1952, 4 năm sau khi ly khai khối CS Liên Xô.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159010403036168832006-09-23T21:18:00.000+10:002006-09-23T21:20:03.430+10:00* Chương 51 * HỒ CHÍ MINH và vị đại anh hùng ái quốcLiên minh chỉ là giai đoạn và ngay trong liên minh vẫn phải nắm quyền chủ động để bảo đảm chính quyền thuộc về giai cấp vô sản khi thực dân bị xô đổ, bởi như Engels đã định nghĩa, chính quyền chỉ là bộ máy mà một giai cấp dùng để hủy diệt giai cấp kia nên không thể để rơi vào tay các giai cấp khác, dù là giai cấp đang được liên minh. <br />Suốt thời gian hoạt động tại Hoa Nam, Thái Lan và cho tới cuối đời, trong mọi cuộc liên minh, Hồ Chí Minh đã tuân thủ triệt để ý nghĩa đoàn kết mà Bùi Tín diễn tả chính bởi mục tiêu này. <br />Liên minh để tăng triển lực lượng đấu tranh với điều kiện bảo đảm vị thế độc tôn của giai cấp vô sản nên đoàn kết trở thành tiêu diệt mọi dị kiến. <br />Trước hết là biến đổi các đối tượng đã tuân phục thành tín đồ tận tụy và kế tiếp là thanh lọc bằng mọi cách các đối tượng không chịu tuân phục. Cho nên khi Phùng Thế Tài bài bác việc gia nhập hàng ngũ các tổ chức đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã giảng giải: “Không vào là sai rồi. Tại sao không vào? Chúng mở cửa cho ta vào nắm quần chúng, sao ta lại quay đi? Chúng mở được hội, thì chúng có khả năng triệu tập quần chúng. Ta phải lợi dụng khả năng ấy. Phải vào mà biến tổ chức địch thành tổ chức ta.” <br />Tới Quảng Châu tháng 11-1924, chỉ vài tuần lễ sau, Hồ Chí Minh đã tiếp cận tổ chức Tâm Tâm Xã và tháng 6-1925 biến tổ chức này thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội với cái nhân được gọi là nhóm bí mật Cộng Sản Đoàn. <br />Nhóm bí mật gồm Hồ Chí Minh và 8 thành viên Tâm Tâm Xã tuân phục Hồ Chí Minh đã điều khiển tổ chức gồm rất đông hội viên đang có mặt tại Hoa Nam, Thái Lan, Việt Nam vận dụng chiêu bài giải phóng dân tộc, ngấm ngầm truyền bá tư tưởng Cộng Sản. <br />Với danh nghĩa Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và chiêu bài tranh thủ độc lập, kể từ 1925, Hồ Chí Minh thu hút nhiều phần tử dân tộc đấu tranh ở trong nước tham gia Cộng Sản như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đặng Xuân Khu, Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh…cùng nhiều phần tử chống Pháp khác đang hoạt động tại Thái Lan, Hoa Nam… <br />Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội nêu mục đích “hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mạng dân tộc, đập tan bọn Pháp, giành lại độc lập cho xứ sở, rồi sau làm cách mạng thế giới, lật đổ chủ nghĩa đế quốc”, nhưng trong công tác tuyên truyền vận động quần chúng, phần được nhấn mạnh chỉ là làm cách mạng dân tộc. <br />Đầu năm 1930, khi Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội bị xóa tên để trở thành Đảng Cộng Sản Đông Dương thì đảng viên Cộng Sản tiếp tục xâm nhập các tổ chức yêu nước khác như Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm, Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội của Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần… đồng thời nêu chiêu bài dân tộc đấu tranh chống Thực Dân Đế Quốc qua một loạt tổ chức, trước hết là Hội Phản Đế Đồng Minh xuất hiện tháng 11-1930, rồi Mặt Trận Phản Đế Đông Dương tháng 4-1931, Đông Dương Phản Đế Liên Minh tháng 3-1935, Mặt Trận Dân Chúng Thống Nhất Phản Đế tháng 6-1936, Mặt Trận Nhân Dân Đông Dương tháng 10-1936, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương tháng 3-1939, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Phản Đế Đông Dương tháng 11-1939 và Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh tức Mặt Trận Việt Minh tháng 5-1941 với lời tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà – theo ghi nhận của Trần Trọng Kim.<br />Suốt 20 năm từ 1925 đến 1945, Hồ Chí Minh không ngừng thúc đẩy đồng chí tuyên truyền cho mục tiêu đấu tranh của Cộng Sản là đập tan chế độ thực dân Pháp để thu hồi độc lập dân tộc và không ngừng hô hào đoàn kết dân tộc, thống nhất lực lượng đấu tranh để sớm đi tới thành công. Nhưng trong hành động thực tiễn, Hồ Chí Minh và các đồng chí không rời xa ý hướng gây dựng và phát triển sự tồn tại duy nhất của đảng Cộng Sản. <br />Cho nên Douglas Pike mô tả về hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này như sau: “Hầu hết những thắng lợi chính trị của Hồ trong thời kỳ tiền Việt Minh là kết quả của tài tổ chức: tạo dựng, xử dụng và đưa ra ánh sáng một cách thuận lợi một chuỗi những tổ chức mặt trận thống nhất, cái sau bao giờ cũng cao hơn cái trước, mỗi cái đều tăng cường quyền lực của đảng, mở rộng thêm sự ủng hộ của cơ sở quần chúng và loại trừ đối lập (rivals). Kỹ thuật (loại trừ) này gồm có việc bao lấy tổ chức đối lập đưa nó vào trong một cộng đồng xã hội rộng lớn hơn như một phương cách làm lu mờ căn cước riêng của nó và như một màn mở đầu để chặt mất đầu, không còn lãnh tụ nên phải tan rã…” <br />Thực chất sách lược liên minh hay đoàn kết dân tộc dành cho tất cả các tổ chức chấp thuận liên hiệp cùng Cộng Sản dưới một hình thức nào đó với mục đích tăng cường lực lượng chống thực dân chỉ là lôi cuốn, khai thác, lũng đoạn để cuối cùng chiếm đoạt hoặc tiêu diệt theo cách Hồ Chí Minh từng giải thích với Phùng Thế Tài là biến tổ chức địch thành tổ chức ta. <br />Để giữ vững thành quả, sách lược này còn bao gồm một loạt hành động nối tiếp nhắm loại trừ trở ngại và những mầm mống đe dọa được định danh là kẻ địch. <br />Quan niệm không có chân lý thứ hai ngoài chân lý Cộng Sản đã biến mọi tổ chức hay phần tử không tuân phục Cộng Sản đều trở thành kẻ địch. Tất nhiên, trong loại trừ kẻ địch thì mọi phương tiện đều tốt, bất kể kẻ địch là ai, ở đâu. <br />Bernard Fall ghi lại cách đối phó của Hồ Chí Minh với những người từng tham gia các lớp huấn luyện do Hồ Chí Minh hướng dẫn tại Quảng Châu nhưng không chịu từ bỏ tinh thần dân tộc: "Đối với những kẻ chứng tỏ không đáng tin cậy, hoặc sau khi tốt nghiệp trường Hoàng Phố mà từ chối không theo cộng sản, Hồ dùng một liều thuốc rất công hiệu: sai đảng viên cộng sản tiết lộ danh tánh họ cho tình báo Pháp. Sở an ninh trong nước sẽ tóm cổ họ ngay khi về tới.” <br />Cộng tác với mật thám Pháp chỉ là một trong nhiều phương cách thanh trừng trở ngại. Hai phương cách khác đã trở thành hoạt động đấu tranh của Cộng Sản là vu cáo, bôi nhọ hết thẩy các tổ chức, phần tử dân tộc có uy tín trong quần chúng hoặc thủ tiêu, ám sát. <br />Sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu nhìn phương cách hành động của Hồ Chí Minh qua sự biểu hiện một tài năng đấu tranh siêu việt theo kiểu nhìn của Halberstam, Douglas Pike, Buttinger … hoặc như chứng cớ cho một bản tính hiểm độc tàn ác theo kiểu nhìn của nhiều người khác. <br />Đó là những kiểu nhìn chỉ nhắm dẫn đến những lời khen hay tiếng chê về một con người biệt lập chứ không đóng góp tích cực cho nhu cầu xác định các biến cố đã xẩy ra trong thực tế với tính cách lịch sử. <br />Tiếng nói quan trọng cất lên từ phương cách hành động của Hồ Chí Minh đối với những người nặng tinh thần dân tộc, không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản là tiếng nói xác định ý hướng phụng sự của Hồ Chí Minh. <br />Ít nhất kể từ 1918, Hồ Chí Minh đã tham gia hoạt động trong nhóm Phan Chu Trinh do thúc đẩy của lòng yêu nước. <br />Nhưng từ 1923, khi trở thành cán bộ Đệ Tam Quốc Tế, Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối rằng “chủ nghĩa Mác-Lenin là ánh sáng chân lý, là mặt trời đưa lại nguồn vui” (8) <br />Ánh sáng của vừng mặt trời này cho thấy ngoại trừ giai cấp vô sản và những người tin theo Cộng Sản, mọi giai cấp hoặc phần tử khác đều thuộc hàng ngũ kẻ thù tức bọn rắn độc tư bản chủ nghĩa – theo ngôn ngữ của Hồ Chí Minh. <br />Vì thế, lòng yêu nước theo cái nghĩa thông thường đã được chính Hồ Chí Minh chỉ cho các đồng chí trong Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội hiểu là nguy hiểm bởi vừa khuôn hạn giữa các biên giới quốc gia nhỏ hẹp vừa đồng nghĩa với sự yêu thương bọn rắn độc tư bản. <br />Lòng yêu nước, nếu không được hiểu như một vỏ ngoài theo sách lược, sẽ phải hàm chứa ý nghĩa mới là mở rộng theo tầm soi rọi của ánh sáng chân lý Mác – Lenin tức bao quát hết thẩy giai cấp vô sản cùng những người tin theo Cộng Sản trên thế giới. Đất nước của Hồ Chí Minh không còn mang tên Việt Nam mà đã đổi thành quê hương của giai cấp vô sản. <br />Cho nên mới có lời nhắc nhở của Hồ Chí Minh về tính chất cuộc cách mạng tại Việt Nam như Trần Văn Giàu đã lập lại: “Chúng ta làm cách mạng đánh đế quốc thực dân tức là đánh tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó có qui mô thế giới mà cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận”. <br />Tính giai cấp đã hoàn toàn thay thế mọi thứ tình nhân loại, tình đồng bào… thậm chí cả tình gia đình ruột thịt. <br />Bởi tất cả những thứ tình này đều đe dọa gây trở ngại cho hoạt động đấu tranh cách mạng vô sản trong trường hợp thiếu nền tảng giai cấp tính. <br />Sách lược đấu tranh đòi hỏi Hồ Chí Minh phải vận dụng lòng yêu nước theo cái nghĩa thông thường, nhưng ý hướng đấu tranh và mục tiêu phụng sự của Hồ Chí Minh đã đặt trọn vào giai cấp vô sản. Phương cách hành động của Hồ Chí Minh từ 1924 tới 1945 là tiếng nói dứt khoát khẳng định thực tế này và phương châm hành động của Cộng Sản là cứu cánh biện minh cho phương tiện.<br />Từ đây tiếng nói quan trọng thứ hai đã cất lên là tiếng nói xác định những tổn hại mà lực lượng dân tộc yêu nước phải gánh chịu do phương cách hành động của Hồ Chí Minh. <br />Sau 20 năm hoạt động, Hồ Chí Minh đã có trong tay Đảng Cộng Sản Đông Dương đủ sức đoạt chính quyền vào Tháng Tám 1945. Sự lớn mạnh của Đảng này tất nhiên do tinh thần tích cực của các đảng viên nhưng không thể phủ nhận xương máu của nhiều nạn nhân là những người Việt Nam yêu nước kể từ tháng 6-1925. Những nạn nhân này đã đóng góp mạng sống vào sự phát triển của Đảng Cộng Sản bằng cách tự nguyện hy sinh cho chiêu bài yêu nước mà Hồ Chí Minh và các đồng chí luôn giương cao hoặc bằng cách bị đẩy vào ngục tù thực dân hay bị âm thầm hạ sát bởi những người Cộng Sản. <br />Song song với sự lớn mạnh của Đảng Cộng Sản, lực lượng dân tộc yêu nước đã liên tục bị triệt hạ, bị tiêu hao không vì mục tiêu phụng sự dân tộc hằng mong mỏi. Duncanson tỏ ra không xa thực tế khi cho rằng dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã trở thành lực lượng chống lại những người-yêu-nước-chống-thực-dân. <br />Bởi khó thể nói khác rằng sức mạnh của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương đã được nuôi dưỡng bằng xác chết của không biết bao nhiêu tổ chức dân tộc đấu tranh và những người Việt Nam yêu nước. <br />Douglas Pike biện giải rằng dù thực tế diễn ra như thế nhưng có thể ông Hồ không muốn thế và Larteguy coi đây là cái giá phải trả cho một cuộc cách mạng – “Để giữ nguyên sự thán phục dành cho cuộc cách mạng, tốt nhất là không nên nhắc đến các nạn nhân của nó”. <br />Douglas Pike, Larteguy là những người ngoài cuộc có thể phát biểu theo bất kể cách suy nghĩ đảo điên nào, nhưng tiếng nói cất lên từ thực tế Việt Nam vẫn khẳng định Hồ Chí Minh đã tranh thủ vị thế lãnh đạo bằng cái giá gây tổn hại đau đớn nặng nề cho dân tộc và hàng ngũ những người yêu nước đấu tranh. <br />Hồ Chí Minh đã nhân danh lòng yêu nước, nhân danh mục tiêu tranh thủ độc lập để tiến hành thủ đoạn tiêu diệt các lực lượng yêu nước hầu đi tới việc độc chiếm quyền hành vào Tháng Tám 1945. <br />Thời kỳ được gọi là đấu tranh giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã diễn ra theo chiều hướng này với những nỗ lực nhắm chủ yếu gây sức mạnh và giành quyền lực cho đảng Cộng Sản Đông Dương. <br />Hồ Chí Minh đã hoàn thành nhiệm vụ do Đệ Tam Quốc Tế giao phó là mở một đầu cầu bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản tại vùng Đông Nam Á bằng cách vận dụng hữu hiệu các nguyên tắc chiến lược sách lược Lenin-được-Staline-hóa để tiêu diệt hầu hết trở ngại là các tổ chức dân tộc yêu nước Việt Nam. <br />Điểm chính trong chiến lược sách lược này là phải kết hợp mọi tầng lớp nhân dân trong nước bị trị dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, hay dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản do Hồ Chí Minh, đại diện Đệ Tam Quốc Tế sáng lập và lãnh đạo. Mục tiêu tối hậu của mọi hoạt động là nắm chính quyền tại Đông Dương để tiến tới Cộng Sản hóa vùng Đông Nam Á. <br />Hồ Chí Minh đã thành công nhưng hàng loạt bàn tay khối óc cần thiết cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam đã bị hãm hại, thủ tiêu đồng thời đẩy tập thể dân tộc vào cảnh ngộ phân ly thù hận không thể hàn gắn tới ngày nay. <br />Bởi vì cuối cùng những người yêu nước đã thấy không còn chọn lựa nào ngoài sự cúi đầu cho Cộng Sản sai phái hay trở thành nạn nhân bị thanh toán. Tất nhiên, khi không chịu trở thành công cụ và muốn tránh số phận nạn nhân thì hành vi đối đầu tự vệ là hành vi bắt buộc phải làm và do đó không thể tránh tình trạng phân ly thù hận. <br />– Thời kỳ thứ hai là thời kỳ Hồ Chí Minh cầm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp từ 1945 tới 1954. <br />Biến cố mở đầu được gọi là Cách Mạng Tháng Tám hoặc cuộc Tổng Khởi Nghĩa Cướp Chính Quyền Về Cho Nhân Dân xẩy ra ngày 19-8-1945 là cuộc biểu tình tổ chức tại Công Trường Nhà Hát Lớn Hà Nội, sau đó biến thành tuần hành tới một số cơ quan để đại diện Việt Minh tiếp thu chính quyền theo thỏa thuận đã dàn xếp. <br />Mấy ngày sau, 27-8-1945, Hồ Chí Minh ra tuyên cáo về việc Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng thuộc Mặt Trận Việt Minh “tự cải tổ thành Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mời thêm một số nhân sĩ tham gia để cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó… Chính Phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt Trận Việt Minh… Nó thật là một chính phủ thống nhất quốc gia giữ trọng trách chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được Quốc Hội để cử ra một Chính Phủ Dân Chủ Cộng Hòa chính thức…”. <br />Trước đó, ngày 25-8-1945 tại Huế, Bảo Đại chính thức tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện Việt Minh đồng thời tại Sài Gòn, Khâm Sai Nguyễn Văn Sâm cũng bàn giao chính quyền cho Lâm Ủy Hành Chánh do Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch. <br />Các phe phái không Cộng Sản trên khắp nước đã bày tỏ cụ thể tinh thần liên hiệp đoàn kết. Hồ Chí Minh đã tuyên cáo chính phủ không phải của riêng Mặt Trận Việt Minh mà là chính phủ thống nhất quốc gia. <br />Khó khăn trước mắt là hậu quả nạn đói và trận lụt vừa xảy ra bắt đầu từ ngày 18-8-1945 tại nhiều tỉnh miền Bắc cùng với thái độ của nhiều phần tử thực dân trong chính giới Pháp không muốn từ bỏ chủ quyền tại Đông Dương. <br />Tuy nhiên, công việc đầu tiên của chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo lại xoay theo hướng khác. <br />Chỉ mấy ngày sau khi chính phủ chính thức ra mắt, ngày 1-9-1945, lực lượng võ trang Việt Minh mở cuộc tấn công tiêu diệt căn cứ Nga My, Ninh Bình của Đảng Đại Việt Duy Dân. <br />Trong 10 ngày đầu tháng 9-1945, Võ Nguyên Giáp nhân danh Bộ Trưởng Nội Vụ ký một loạt sắc lệnh giải tán các đảng Đại Việt Quốc Gia Xã Hội, Đại Việt Quốc Dân Đảng… vì âm mưu với ngoại quốc đe dọa nền Độc Lập của Việt Nam và bắt giữ nhóm lãnh đạo Thanh Niên Ái Quốc Hội với tội danh Việt gian. <br />Tại miền Nam, các nhân vật giáo phái và nhóm Cộng Sản Đệ Tứ Quốc Tế bị lùng bắt với tội danh âm mưu đảo chính. Hành động này khiến bùng nổ cuộc biểu tình phản đối của tín đồ Hòa Hảo tại Cần Thơ ngày 8-9-1945 và trở thành một vụ thảm sát khi Việt Minh đưa lực lượng võ trang tới trấn áp. <br />Trả lời dư luận thắc mắc, ngày 10-9-1945, Trần Huy Liệu họp báo tại Hà Nội thanh minh chính phủ không hề khủng bố hay bắt bớ tràn lan “mà chỉ bắt những kẻ đã được nhận thấy là có phương hại tới chính quyền của nhân dân”. <br />Ngày 11-9-1945, báo Cứu Quốc của Việt Minh loan tin bắt giữ một số Việt gian xâm nhập từ các tỉnh Cao Bằng, Lào Kay mà thực tế chỉ là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Hội… <br />Trong cùng ngày, Võ Nguyên Giáp ký sắc lệnh giải tán Việt Nam Hưng Quốc Thanh Niên Hội, Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Hội. <br />Hai ngày sau, 13-9-1945, báo Cứu Quốc loan tin bắt giữ hai lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng từng là đồng chí của Nguyễn Thái Học là Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp với tội danh phản quốc. Hai người này đều bị giết sau đó. Tờ báo đăng một bài dài mạ lỵ nhóm lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng đồng thời, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 31 buộc mọi công dân “phải khai báo ý định biểu tình, hội họp cho chính quyền trước 24 giờ” và ngày 15-9-1945, Hồ Chí Minh ký thêm sắc lệnh “đưa đi an trí tất cả những phần tử nguy hiểm cho cách mạng”… <br />Bộ máy chính quyền đã được vận dụng tối đa và tức khắc vào việc trấn áp các phần tử được nhận thấy có phương hại tới chính quyền của nhân dân như cách nói của Trần Huy Liệu. <br />Chỉ có một thay đổi nhỏ so với thời kỳ trước là không cần sự tiếp tay của cơ quan mật thám Pháp vì lúc này Đảng Cộng Sản đã nắm quyền trong tay. <br />Bernard Fall nói về hoạt động của Hồ Chí Minh: “Ông ta quyết tâm làm cho cái Nhà Nước Việt Nam (Dân Chủ Cộng Hòa) sống sót bằng bất cứ giá nào…Khi Hồ thương thuyết với Pháp ở Fontainebleau thì đồng chí của ông là Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giầu, Nguyễn Bình, Phạm Văn Bạch thanh toán "các kẻ nội thù của chế độ" gồm các nhà lãnh đạo các giáo phái, các quan lại (Ngô Đình Khôi), các nhà trí thức (như Phạm Qùynh), nhóm Trotskit, và các người yêu nước chống cộng” khiến dẫn đến cái hậu quả là " tại Nam Kỳ, cả hai phía, giáo phái và Việt Minh đã giải quyết thanh toán những phần tử cảm tình của đối phương như sau: Trói lại từng chùm rồi thả xuống sông Mê Kông cho chết trôi ra biển.”<br />Trong lúc tiến hành các thủ đoạn khủng bố tàn khốc đó, Hồ Chí Minh luôn tỏ ra sẵn sàng chấp nhận sự nhượng bộ tối đa trước đòi hỏi của các lực lượng dân tộc để chứng minh lòng yêu nước. <br />Ngày 11-11-1945, Hồ Chí Minh công bố nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương với lời phát biểu muốn “hợp tác tinh thành với các đảng phái khác” trong tinh thần đoàn kết dân tộc và tiến tới thành lập chính phủ liên hiệp để cùng chung lo việc nước. <br />Các lực lượng Việt Cách, Việt Quốc từ Hoa Nam trở về đáp ứng lời kêu gọi đoàn kết qua bản thông cáo chung ký tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh ngày 24-12-1945 với mục tiêu cụ thể:<br />– Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết, tinh thành cùng nhau thảo luận để giải quyết hết thẩy những vấn đề khó khăn trước mắt.<br />– Ủng hộ một cách thiết thực cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc Hội.<br />– Đình chỉ mọi sự công kích nhau bằng ngôn luận và hành động.<br />Rồi chính phủ liên hiệp ra mắt, bầu cử Quốc Hội được tiến hành. Trên thực tế, cuộc liên hiệp chỉ giúp Hồ Chí Minh củng cố vai trò lãnh đạo trong hoạt động ngoại giao với Pháp, ngoài ra các biện pháp tấn công phe đối lập vẫn tiếp diễn. <br />Trong Một Cơn Gió Bụi, Trần Trọng Kim ghi lại diễn tiến liên hiệp thời điểm đó: “Việt Minh đem một số người ở ngoài đảng của họ vào trong chính phủ như Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Tố, Đào Trọng Kim vv... để tỏ ra là một chính phủ liên hiệp có cả các hạng người. Song những cơ quan trọng yếu như quốc phòng, nội vụ, tài chính, tuyên truyền đều ở tay những người chính thức Việt Minh, tức là cộng sản như Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Đồng vv... <br />Về phương diện quân sự thì quân của Việt Minh có Giải Phóng Quân là quân đã được huấn luyện chính trị cộng sản, Vệ Quốc Quân và Tự Vệ Quân tức là công dân do các ủy ban xã, phố cắt để canh gác và giữ trật tự. <br />Quân của Quốc Dân Đảng thì có từng khu riêng. Tuy bề ngoài nói các quân đội thuộc về bộ quốc phòng, nhưng thực ra bộ ấy không có quyền hành gì cả. Việc gì cũng quyết định ở quân sự ủy viên hội có Võ Nguyên Giáp, Cộng Sản, làm chủ tịch … Lúc ấy khẩu hiệu của chính phủ là "thống nhất quân đội" mà ba tháng sau khi chính phủ liên hiệp thành lập, quân đội vẫn không thống nhất được… Quân Việt Minh chỉ rình có cơ hội là đánh quân Quốc Dân Đảng, hay bao vây để tiêu diệt lực lượng đối phương, thành ra hai bên cứ kình địch nhau mãi… Sở công an Việt Minh bắt những người Việt Nam Quốc Dân Đảng hay những người bị tình nghi vào tra tấn cực hình, có khi dùng những cách tàn nhẫn ghê gớm hơn thời Pháp và Nhật cai trị. Người một nước với nhau mà đối xử vô nhân đạo như thế, thật là thê thảm.”<br />Về tình hình chung, Trần Trọng Kim nhận định: “Cộng sản đảng, theo cách tổ chức và hành động, là một tôn giáo mới… Ai không tin theo và phản đối những người đứng đầu đảng tức những bậc giáo chủ, là người phản đạo, phải trừng trị rất nghiêm... Cho nên cha con, anh em, bè bạn không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa cộng sản và phục tòng người cầm quyền của đảng, ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: hễ ai làm những việc lợi cho đảng là người giỏi, người tốt… để thành lập xã hội mới. Xã hội mới ấy không tranh đấu cho quốc gia hay dân tộc. Dù có nói tranh đấu cho quốc gia hay dân tộc, cũng chỉ là phương pháp dùng tạm thời cho được việc mà thôi, chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu cho giai cấp vô sản… để thực hiện một thế giới đại đồng, đặt dưới quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản ở bên Nga... Phương thuật của đảng cộng sản bên Nga nói là bài trừ đế quốc chủ nghĩa và tiêu diệt những chế độ độc tài áp chế nhưng lại áp dụng chế độ độc tài áp chế hà khốc và tàn ác hơn… Người cộng sản hay dùng chữ giải phóng…Có phải trước kia có cái cũi giam người, bây giờ đem cái cũi kiểu mới đến bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi mới ấy là giải phóng không? Nếu cái nghĩa giải phóng là thế, thì cũi cũ hay cũi mới cũng vẫn là cái cũi, chứ hơn gì?… Người nào công kích người cầm quyền của đảng là phải tội bị đày, bị giết. Ai không sốt sắng theo mình thì bị tình nghi, phải chịu mọi phiền khổ. Nhân dân vẫn bị đàn áp lầm than…Như thế thì giải phóng ở đâu?…Lúc đầu Việt Minh tuyên truyền rầm rĩ: "Nước Việt Nam đã được Đồng Minh cho hoàn toàn độc lập, dân được tha hết các thứ thuế"… Dân nghe nói thế chạy ùa ùa theo. Sau chẳng thấy độc lập đâu và dân lại phải đóng góp nặng hơn trước... Thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngược, giả dối cho được việc trong một lúc. Như họ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng, nay nói đoàn kết, mai nói đoàn kết, nhưng vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt lương thực. Khi đánh được thì giết phá, đánh không được thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá...” <br />Cho nên, giữa lúc hiện diện chính phủ liên hiệp, tháng 7-1946, Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy công an tấn công các trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Hà Nội với lý do triệt hạ bọn cướp của giết người và cán bộ Cộng Sản dựng hình nộm khắp các cửa chợ, bến sông với tấm băng quàng trước ngực ghi tên Việt gian Nguyễn Hải Thần, Việt gian Vũ Hồng Khanh, Việt gian Nguyễn Tường Tam… là những người có mặt trong chính phủ liên hiệp nhưng không chấp nhận Cộng Sản… <br />Hồ Chí Minh đã tiếp nối hoạt động của thời kỳ trước với mức độ cao hơn. <br />Nhu cầu đoàn kết dân tộc khẩn thiết hơn bao giờ hết khi chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ cuối tháng 12-1946, nhưng với Hồ Chí Minh, chiến tranh là cơ hội tốt để thanh toán các phần tử đối lập hầu củng cố đảng Cộng Sản được tuyên bố giải tán từ cuối năm 1945. Bernard Fall là người từng gặp gỡ và có nhiều thiện cảm với Hồ Chí Minh đã ghi lại: "Chiến tranh Đông Dương bùng nổ đã đơn giản hóa những khó khăn về chính trị của ông Hồ. Không cần phải đối xử với phe đối lập bằng bàn tay bọc nhung nữa: Cứ việc gọi họ một cách đơn giản là Việt gian.” <br />Tất nhiên không phải toàn thể quần chúng đều dễ dàng tin theo luận điệu chụp mũ vu cáo do Cộng Sản đưa ra. <br />Nếu có những người do lòng yêu nước thúc đẩy chỉ dồn trọn tâm lực vào việc chiến đấu chống Pháp không băn khoăn về mọi diễn tiến khác thì cũng có những người ưu tư về chủ trương của Hồ Chí Minh. <br />Những người sau này đã nhận thấy đối với Hồ Chí Minh, không phải thực dân Pháp mà chính những người yêu nước không chấp nhận Cộng Sản mới là kẻ thù số một. Cho nên thay vì tập trung sức mạnh toàn dân để ngăn chống Pháp, Hồ Chí Minh đã lợi dụng tình thế chiến tranh để tiêu diệt các phần tử đối lập bằng mọi thủ đoạn. <br />Mục tiêu phụng sự quốc gia dân tộc mà Hồ Chí Minh luôn tuyên bố đã hiện hình là chiêu bài che đậy cho mục tiêu giai cấp đấu tranh. Quốc gia dân tộc chỉ là phương tiện giúp Hồ Chí Minh và các đồng chí áp đặt một đường lối chính trị vào Việt Nam. <br />Ý thức này khiến mọi hy vọng cuối cùng về hòa hợp hòa giải dân tộc hết lý do tồn tại và không ít người đã dứt khoát từ bỏ hàng ngũ kháng chiến do Cộng Sản đang khai thác để mở ra cục diện tình hình mới là sự hình thành trận tuyến những người Việt Nam yêu nước chống Cộng Sản. <br />Trên thực tế, sự hiện diện của yếu tố Cộng Sản trong tình hình Việt Nam ngay từ 1945 đã trở thành vấn đề hết sức phức tạp đối với chính giới Pháp, Mỹ. Tư cách cán bộ Đệ Tam Quốc Tế của Hồ Chí Minh giúp thêm lý do cho các phần tử thực dân Pháp theo đuổi tham vọng tái lập chủ quyền tại Đông Dương, đồng thời trở thành chướng ngại cho chủ trương của Mỹ chống đối chế độ thực dân. Bốn tháng trước khi chính thức tuyên chiến với Đức, Tổng Thống Roosevelt đã thuyết phục Thủ Tướng Anh Churchill cùng ký tên trong bản Tuyên Cáo 14-8-1941 được gọi là Hiến Chương Đại Tây Dương cam kết tôn trọng quyền tự quyết của các quốc gia bị trị. Với chủ trương này, Mỹ không đồng ý cho quân Pháp giải giới Nhật tại Đông Dương và đặt lực lượng Đồng Minh tại Đông Nam Á dưới sự chỉ huy của Anh. Do đó, đơn vị đặc vụ Mỹ tại Hoa Nam đã hỗ trợ Việt Minh từ đầu năm 1945 và nhiều sĩ quan Mỹ tỏ ra có thiện cảm với Hồ Chí Minh. Trong ngày tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 của Việt Nam, một số tướng tá Mỹ đã hiện diện trên khán đài ở Hà Nội, thậm chí tướng Gallagher còn lên đài phát thanh Hà Nội hát “quốc ca” đòi “phanh thây uống máu quân thù” đến nỗi sau đó bị khiển trách. Tuy nhiên, Mỹ lại nắm chắc tính lệ thuộc Liên Xô của Hồ Chí Minh và đang đối diện với mối lo về tình trạng Liên Xô mở rộng ảnh hưởng khắp Đông Âu sau sự sụp đổ của Đức. Một chính quyền Cộng Sản xuất hiện tại Việt Nam với tư cách đầu cầu cho Liên Xô tràn lấn khắp Đông Nam Á là điều ngoài ý muốn của Mỹ. Cũng ngoài ý muốn của Mỹ nếu Pháp tái lập chế độ bảo hộ tại đây. <br />Thực ra không phải chính quyền Paris lúc đó không chia xẻ mối ưu tư của Mỹ về hiểm hoạ Cộng Sản. Ngay trong thời gian tiến hành hội nghị Fontainebleau, thủ tướng Pháp George Bidault đã căn dặn trưởng đoàn Pháp Max André về thái độ thận trọng để không biến Hồ Chí Minh thành con cờ của Liên Xô như chính Võ Nguyên Giáp đã ghi lại trong tập hồi ký Những năm tháng không thể nào quên. <br />Lời căn dặn của Bidault có thể hiểu là lời nhắc nhở phái đoàn Pháp nên uyển chuyển, thậm chí sẵn sàng mềm dẻo tới mức tối đa để thu hút Hồ Chí Minh về phía Tây Phương. Nhưng thái độ của Hồ Chí Minh đã khiến mọi nỗ lực của Pháp không thể đưa tới kết quả mong muốn. Khởi từ sự việc này, có thể nói sự có mặt của Pháp tại Việt Nam đã mang ý nghĩa ngăn chống Cộng Sản ngay từ năm 1946, cụ thể là ngăn chống sự bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô. Tuy nhiên, ý nghĩa này đã bị che khuất bởi các định kiến sẵn có từ lâu về vai trò thực dân của Pháp tại Đông Dương, nhất là khó tránh bị khai thác bởi một số người vẫn chưa thể chấm dứt giấc mơ tái lập chế độ thuộc địa. <br />Những yếu tố phụ thuộc này đã dễ dàng biến ý hướng ngăn chống Cộng Sản của người Pháp thành một chiêu bài che giấu ý đồ thực dân và vì thế đã đặt Pháp vào một trận tuyến không được dư luận quốc tế hỗ trợ. <br />Chính vì thế, trong bản thông báo ngày 16-12-1946 gửi các đại sứ Mỹ, Ngoại Trưởng James Byrnes tuy ghi nhận ảnh hưởng Pháp tại Việt Nam không chỉ là kháng tố với ảnh hưởng Liên Xô mà còn mang tính bảo vệ toàn vùng Đông Nam Á trước đà bành trướng của Cộng Sản, nhưng Mỹ vẫn giữ thái độ hết sức dè dặt. Do đó, nhiều viên chức ngoại giao Mỹ như Abbott, Landon, Reed, O’Sullivan đã tới Việt Nam với vai trò điều giải cố tìm một lối thoát cho tình thế khó khăn tại đây đã không vượt khỏi tình trạng thụ động chờ đợi. <br />Cuối cùng, tháng 12-1946, Abbott thú nhận đành bó tay, bởi thay vì nhắm tạo một liên bang kinh tế cần thiết cho cả hai bên thì Pháp cũng như Việt Minh đều nhìn theo hướng khác. Pháp không thể xác định nổi thế nào là quan điểm quốc gia tự do trong khối Liên Hiệp Pháp còn Việt Minh giữ thái độ như trẻ nít chỉ nêu đòi hỏi trong sự thiếu kém kiến thức cả về kinh tế lẫn vấn đề độc lập. Việt Minh không rời bỏ ý đồ độc bá trong khi Pháp không thể dễ dàng đặt các xứ Đông Dương vào vòng ảnh hưởng của Liên Xô. Nhưng lập trường ngăn chống Cộng Sản của Pháp luôn bị đồng hoá với mong muốn tái lập đặc quyền của Pháp, trong khi Việt Minh lại nắm được chiêu bài tranh thủ độc lập cho dân tộc. Trên thực tế, mong muốn tái lập đặc quyền của Pháp vẫn tồn tại với không ít nhân vật trong chính giới Pháp lúc đó và trở thành một xu hướng có ảnh hưởng đáng kể. Hai xu hướng này chỉ có một điểm gặp gỡ là cùng đối đầu với lực lượng yêu nước Việt Nam nên đã có lúc mặc nhiên hợp sức cố loại khỏi chính trường tiếng nói đại diện trung thực cho nhân dân Việt Nam, và chỉ ngừng tại đó. (9) <br />Thành ra Mỹ không có lý do can thiệp vào nội tình Đông Dương, cũng không thể nghiêng về phía Việt Minh hay về phía Pháp, và chiến tranh trở thành tất yếu. Đương nhiên, cả hai phía đều cố che giấu thực chất của mình. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã có sẵn bộ áo dân tộc yêu nước để hô hào toàn dân hỗ trợ chống xâm lăng trong khi những phần tử chủ trương tái lập chế độ thuộc địa cũng khai thác danh nghĩa ngăn chống Cộng Sản của Pháp để thúc đẩy tình hình diễn biến theo những tính toán của mình. Thực tế phức tạp này đã đem lại thuận lợi nhiều hơn cho chiêu bài yêu nước của Hồ Chí Minh trong khi phủ mờ ý nghĩa ngăn chống Cộng Sản của Pháp vào thời gian bùng nổ cuộc chiến, nhất là khi Cộng Sản Quốc Tế mở rộng mặt trận tuyên truyền trên khắp thế giới. <br />Tháng 9-1947, tổ chức Đệ Tam Quốc Tế Komintern sống lại dưới cái tên Phòng Thông Tin Quốc Tế Cộng Sản Kominform đặt các quốc gia và tổ chức Cộng Sản khắp nơi vào cuộc đấu tranh cho cách mạng thế giới do Liên Xô lãnh đạo. <br />Do ảnh hưởng Liên Xô mở rộng sau chiến tranh, cuộc cách mạng thế giới không còn hạn chế trong phạm vi hưởng ứng của một số tổ chức mà có sự tiếp tay qui mô của nhiều quốc gia. Tình hình thế giới lập tức biến thành thế phân cực đối đầu giữa Liên Xô và các nước Tây Phương. <br />Do đặt dưới quyền chỉ đạo của Cộng Sản, cuộc kháng chiến tại Việt Nam đã gắn kết chặt chẽ với cuộc chiến ý thức hệ giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản như Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chúng ta làm cách mạng đánh đế quốc thực dân tức là đánh tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó có qui mô thế giới mà cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận. Cách mạng Việt Nam được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, và cách mạng Việt Nam góp phần vào cuộc cách mạng thế giới đó." <br />Lời tuyên bố của Hồ Chí Minh cho thấy rõ cuộc kháng chiến không hoàn toàn nhắm mục tiêu giải phóng dân tộc mà nhắm góp phần vào cuộc cách mạng thế giới đánh đổ tư bản chủ nghĩa. Nền độc lập của Việt Nam trở thành thứ yếu vì cuộc chiến mang tính cục bộ của cách mạng vô sản thế giới với mục tiêu bành trướng ảnh hưởng tại Đông Nam Á. Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam được sự ủng hộ của cách mạng thế giới – như lời Hồ Chí Minh tuyên bố – để đẩy nhân dân Việt Nam vào một cuộc trường chinh mở rộng biên thùy cho thế giới Cộng Sản.<br />Vai trò chống Cộng Sản của Pháp tại Đông Nam Á trở thành sự thực, nhưng hình ảnh thực dân vốn có nơi Pháp không dễ xóa nhòa trong dư luận. <br />Dân chúng Việt Nam sau gần một thế kỷ bị Pháp đô hộ đã quen đồng hóa người Pháp vào các quan chức thuộc địa. <br />Với dư luận thế giới, sự xuất hiện những đoàn quân viễn chinh trên một đất nước xa lạ để chống người dân địa phương không dễ giải thích bằng việc bảo vệ bất kỳ thứ lý tưởng nào.<br />Hơn nữa, nhiều người còn ngờ vực về cuộc chiến tranh ý thức hệ, vì không nhìn thấy cuộc chiến đó ở đâu và ngờ vực luôn cả sự hiện diện của tình trạng chiến tranh lạnh. <br />Tâm trạng này xuất phát từ nhiều lý do, trong đó quan trọng hơn hết là sự không lưu tâm tới quan niệm đấu tranh giai cấp với chủ trương liên tục và trường kỳ chiến đấu khắp toàn cầu dưới mọi hình thức để xóa bỏ ý thức hệ Tư Bản. Từ quan niệm này, Cộng Sản đã phát động cuộc chiến mệnh danh chiến tranh ý thức hệ bất chấp thái độ của kẻ địch, kể cả trường hợp kẻ địch phủ nhận sự hiện diện của ý thức hệ Tư Bản – một cuộc chiến tất yếu theo quan niệm đấu tranh giai cấp và xảy ra dưới nhiều hình thức nhắm đánh đổ mọi kẻ địch được nêu rõ theo lập luận duy vật biện chứng, kể cả những kẻ không hề nghĩ tới Cộng Sản hay chống lại Cộng Sản. Cũng do đó đã xuất hiện danh từ “chiến tranh lạnh” để diễn tả tình trạng chiến tranh không có tiếng súng. Dưới sự lãnh đạo của Liên Xô, các quốc gia và tổ chức Cộng Sản khắp nơi kết thành một trận tuyến chống lại mọi xu hướng tư tưởng khác với tư tưởng Cộng Sản bao gồm Phong Kiến, Thực Dân, Tư Bản, Dân Tộc… kể cả các hệ phái Cộng Sản ngoài Đệ Tam Quốc Tế như Kausky, Trotski … <br />Hồ Chí Minh là cán bộ Đệ Tam Quốc Tế từ 1923, Đảng Cộng Sản Đông Dương là chi bộ trực thuộc Đệ Tam Quốc Tế từ 1931 nên cuộc chiến chống Pháp tại Việt Nam gắn chặt với trận tuyến này, tức không thể không mang tính cục bộ của cuộc chiến ý thức hệ thế giới đang diễn ra giữa hai phe Cộng Sản và Tư Bản.<br /> Từ đây, không thể phủ nhận vai trò chống Cộng Sản của Pháp dù trong chính giới Pháp vẫn tồn tại những phần tử chưa muốn từ bỏ chính sách thực dân.<br />Theo đúng nguyên lý Lenin với sách lược mặt trận dân tộc, hết thẩy các quốc gia và đoàn thể chịu ảnh hưởng Liên Xô đã khai thác sự hiện diện của những phần tử thực dân để vùi dập, bôi nhọ vai trò chống Cộng Sản của Pháp đồng thời khai thác sự hiện diện của những người yêu nước trong hàng ngũ kháng chiến Việt Nam để tán dương chính nghĩa chống xâm lăng của Hồ Chí Minh. Để tăng hiệu quả cho lời tán dương này cũng xuất hiện những lập luận vu cáo, kết án mọi phần tử yêu nước từ bỏ hàng ngũ kháng chiến vì nhận rõ con đường đi ngược nguyện vọng dân tộc của Hồ Chí Minh. <br />Chính nghĩa và ngụy nghĩa trở thành xen lấn, đảo lộn trong tình thế thực giả, khó phân. Vai trò chống Cộng Sản của Pháp không thể hoàn toàn hiển thị vào lúc đầu nên bị bôi xóa dễ dàng và ảnh hưởng nặng nề tới trận tuyến của những người Việt Nam yêu nước khi từ bỏ hàng ngũ kháng chiến để liên kết với Pháp. <br />Cuộc liên kết giữa những người Việt Nam yêu nước với Pháp khởi từ cuối năm 1947 là một quá trình vận động hết sức gập ghềnh cho cả hai phía. <br />Để đại diện cho tiếng nói dân tộc, những người Việt Nam yêu nước phải đẩy Pháp về vị trí đồng minh thuần túy trong cuộc chiến ngăn chống Cộng Sản, trong khi Pháp một phần bị ràng buộc bởi thực tế chiến trường phần khác vẫn có những phần tử chưa thể từ bỏ ngay các đặc quyền. Tới cuối năm 1947, nhiều nhân vật chính trị Pháp vẫn nuôi ý đồ dùng các phần tử yêu nước Việt Nam như một chiêu bài trong chiêu bài chống Cộng Sản. Vì thế, không ít khó khăn đã kéo dài với việc chấp thuận các điều kiện liên kết do những người Việt Nam yêu nước đặt ra, trong số có 2 vấn đề:<br />– Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 3 miền Bắc, Trung, Nam có một chính phủ độc lập do người Việt Nam cử ra.<br />– Việt Nam sẽ có quân đội riêng do chính phủ Việt Nam độc lập nắm quyền điều động. <br />Đổi lại, Việt Nam chấp nhận gia nhập Liên Hiệp Pháp, sẵn sàng dành cho Pháp thay mặt về các vấn đề ngoại giao và quân đội Việt Nam sẽ tham gia bảo vệ khối Liên Hiệp Pháp.<br />Những đòi hỏi này được Cao Ủy Pháp tại Đông Dương Bollaert thỏa thuận với Bảo Đại từ cuộc gặp gỡ tại Hạ Long đầu tháng 12-1947 nhưng mãi 6 tháng sau mới được ghi thành điều 1 trong bản tuyên cáo chung 3 điểm Bollaert – Bảo Đại ngày 5-6-1948 như sau: “Nước Pháp long trọng nhìn nhận sự độc lập của Việt Nam. Từ rày về sau, việc tự do thực hiện nền thống nhất quốc gia tùy nơi nước Việt nam. Về phần mình, nước Việt Nam tuyên bố chịu gia nhập vào Liên Hiệp Pháp với danh nghĩa một quốc gia đồng hội với nước Pháp”. (10) Bản tuyên cáo được gọi là Hiệp Ước Hạ Long không được Quốc Hội Pháp thông qua. Suốt thời gian này, Mỹ đã nhiều lần cảnh giác Pháp về việc có thể đẩy toàn bộ Đông Dương vào tay Liên Xô và ngày 9-7-1948 Tây Âu Sự Vụ của Bộ Ngoại Giao Mỹ đã đề nghị với ngoại trưởng Marshall chính thức nói rõ với chính phủ Pháp rằng Pháp đang đứng trước hai ngã đường: “Hoặc chấp nhận ngay nguyên tắc Việt Nam thống nhất gồm cả 3 miền Nam, Trung, Bắc và độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc sẽ mất hết toàn cõi Đông Dương”. <br />Tuy vậy, vẫn phải chờ thêm 8 tháng nữa, hai bên mới tiến tới thỏa ước Élysée 8-3-1949 giữa Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại, chấp thuận các đòi hỏi mà những người yêu nước nêu ra. <br />Bản thỏa ước công nhận sự hình thành nước Việt Nam thống nhất độc lập với danh xưng Quốc Gia Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại, nhưng trên thực tế việc xây dựng một chính quyền hoàn toàn độc lập cho Việt Nam vẫn chưa hết khó khăn trong đó có những khó khăn ngay từ phía Pháp. <br />Khó khăn lớn nhất là dư luận chống đối dấy lên từ chính nước Pháp bởi các tổ chức Cộng Sản và những phần tử chưa muốn từ bỏ chính sách thực dân. Cộng Sản Pháp trong thế liên kết với cuộc chiến ý thức hệ đã vận dụng tối đa các phương tiện truyền thông triệt hạ uy tín của những người Việt Nam yêu nước hầu ngăn chặn mối nguy cho phe Cộng Sản do sự xuất hiện lực lượng dân tộc yêu nước tại Việt Nam. <br />Trong khi đó, các phần tử chủ trương tái lập chế độ bảo hộ bắt đầu nhìn thấy viễn tượng tan vỡ các đặc quyền. Những bài báo tương tự bài của Simone Terry gọi Hồ Chí Minh là Bác Hồ – L’Oncle Ho – từng xuất hiện trên tờ L’Humanité lúc Hồ Chí Minh tới Paris tháng 6-1946 lại xuất hiện trên các báo Revue Socialiste, Franc-Tireur… ca ngợi “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qui tụ được những người quốc gia không đảng phái cũng như một số đông người Thiên Chúa Giáo yêu nước” hoặc “Việt Nam đứng sau lưng Hồ Chí Minh. Trước hết phải thương thuyết với Hồ Chí Minh – Le Vietnam est derrière Ho Chi Minh. Il faut traiter en premier lieu avec Ho Chi Minh”… Tại diễn đàn Quốc Hội Pháp, các dân biểu Cộng Sản và phe De Gaulle như Guillon, Marc Dupuy… vu cáo nhục mạ Cựu Hoàng Bảo Đại bằng đủ mọi lời lẽ như “Bảo Đại là tay sai của Nhật, đã giao Đông Dương cho Nhật, một ông vua mất chức được biết nhiều ở các sân Golf tại Cannes hay ở các hộp đêm…” và xuyên tạc những người Việt Nam yêu nước “chỉ là một nhóm cựu quan lại, cựu công chức, vài trưởng giả giàu có… chỉ nghĩ đến gia tăng quyền lợi bản thân trước khi nghĩ đến tổ quốc của họ…” <br />Những người này chống đối thỏa ước Élysée, cho rằng Pháp nhượng bộ quá nhiều so với các hiệp ước ký với Hồ Chí Minh năm 1946, vì Hồ Chí Minh đã đồng ý gác lại vấn đề Nam Kỳ, vẫn coi như lãnh thổ hải ngoại của Pháp…<br />Trận đánh không có tiếng súng này kìm chân Quốc Hội Pháp trì hoãn tới ngày 2-2-1950 (11) mới phê chuẩn bản thỏa ước. Lúc này, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã thành lập và công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Ngày 1-2-1950, Liên Xô cũng công nhận chính phủ Hồ Chí Minh và yêu cầu cử đại sứ tới Mạc Tư Khoa. Hồ Chí Minh đã có một hậu phương khổng lồ ở sát sau lưng với sự yểm trợ về mọi mặt của toàn khối Cộng Sản trong khi trận tuyến những người Việt Nam yêu nước chưa ổn định xong về mặt tổ chức. <br />Dù sao Quốc Gia Việt Nam đã thành hình với chủ quyền độc lập, lãnh thổ thống nhất, được Mỹ chính thức thừa nhận ngày 4-2-1950 và Anh thừa nhận ngày 7-2-1950. <br />Sự kiện thực tế này gần như luôn bị gạt qua bởi những người cố tình diễn tả cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến giải phóng đất nước. Theo những người này, lý do bùng nổ cuộc chiến là hành vi xâm lược của Pháp được Mỹ yểm trợ và chính quyền Quốc Gia Việt Nam chỉ là bù nhìn do Pháp dựng lên – dập khuôn theo luận điệu tuyên truyền mà toàn thể khối Cộng Sản nỗ lực đưa vào dư luận thế giới. <br />Người ta không chỉ gạt bỏ cuộc vận động giành lại chủ quyền dân tộc của những người yêu nước, gạt bỏ chủ trương tiêu diệt phe đối lập của Hồ Chí Minh mà còn cố tình quên tình trạng bị ràng buộc với Đệ Tam Quốc Tế khiến Hồ Chí Minh không thể làm khác được những việc đã làm, trong đó có cả điều mà Vụ trưởng Đông Nam Á Sự Vụ của Mỹ George Moffat Abbott từng mô tả là “thái độ như trẻ nít chỉ nêu đòi hỏi trong sự thiếu kém kiến thức cả về kinh tế lẫn vấn đề độc lập”. <br />Hồ Chí Minh không bao giờ là trẻ nít mà tuân thủ đúng nguyên tắc đấu tranh, đẩy mọi sự việc theo hướng cần thiết. Từ tháng 9-1945, sau khi quân Pháp đổ bộ Sài Gòn cho tới cuối 1946, Hồ Chí Minh vẫn nhượng bộ, không bàn về vấn đề Nam Kỳ và ký kết cho quân Pháp vào miền Bắc với dụng ý mà các tác giả Lacouture, Sainteny… đã thấy và chính Võ Nguyên Giáp đã ghi lại là tạm hòa với Pháp để có đồng minh tiêu diệt kẻ thù số một vào lúc đó là các phần tử phản động tức những người yêu nước không chấp nhận cả Cộng Sản lẫn Thực Dân. <br />Khi trấn áp xong lực lượng này thì đồng minh tạm thời là Pháp trở thành kẻ địch. Bước đi được định sẵn của Cộng Sản là lợi dụng các phần tử dân tộc bất mãn với thực dân nên hành động chặt đứt mọi hy vọng thương lượng, đẩy Pháp vào thế phải gây chiến là nước cờ theo đúng lớp lang. <br />Toàn thể dân tộc không còn chọn lựa nào ngoài việc kháng chiến chống Pháp trong khi Hồ Chí Minh và những người Cộng Sản với vị thế độc tôn lãnh đạo sẽ biến cuộc chiến thành một bộ phận của cách mạng thế giới và được sự ủng hộ của cách mạng thế giới để góp phần vào cách mạng thế giới như Hồ Chí Minh tuyên bố. <br />Chuyến du hành qua Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa đầu năm 1950 của Hồ Chí Minh và sự tái xuất hiện Đảng Cộng Sản dưới danh xưng Đảng Lao Động Việt Nam cuối 1951 để mở đầu cho chiến dịch thanh lọc rộng rãi kéo dài từ 1953 tới 1956 trong khuôn khổ các chính sách rèn cán chỉnh quân, cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp… là tiếng nói khẳng định mục tiêu bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản. <br />Sự việc càng cụ thể hơn, khi Liên Xô thay đổi đường lối sau cái chết của Stalin và Trung Cộng cần có thời gian hồi phục sau cuộc đối đầu với Mỹ tại Triều Tiên thì Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận giải pháp chia đôi đất nước năm 1954, bất kể nguyện vọng dân tộc ra sao, bất kể đã có bao nhiêu con dân Việt Nam bỏ mình vì mục tiêu bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước. <br />Trong thời kỳ cầm đầu cuộc kháng chiến 1945-1954, Hồ Chí Minh vẫn luôn đặt quyền lợi tối thượng của dân tộc dưới quyền lợi của Cộng Sản Quốc Tế. Lòng yêu nước theo ý nghĩa thông thường đã khô cạn hẳn trong tâm tư Hồ Chí Minh nên dù hàng ngũ kháng chiến có mặt nhiều người yêu nước và ngay cả một số đảng viên cộng sản cũng kháng chiến vì yêu nước hơn vì lý tưởng cộng sản thì cuộc kháng chiến vẫn không vì lý tưởng quốc gia. Bởi hàng ngũ kháng chiến được lãnh đạo bởi một tông đồ (apostle) của tôn giáo Cộng Sản – như Khrutshchev mô tả – và không lúc nào tách khỏi sự chỉ đạo của Đệ Tam Quốc Tế, cụ thể là Liên Xô, nên luôn hướng cuộc kháng chiến xoay theo đích nhắm của khối Cộng Sản. <br />Kết quả là bất chấp 9 năm hy sinh xương máu của con dân, đất nước bị chia đôi tại vĩ tuyến 17, sau khi đã giành được sự thống nhất Bắc-Trung-Nam với thỏa ước Élysée 1949 do nỗ lực của những người yêu nước. <br />Rõ ràng Hồ Chí Minh đặt nặng nhiệm vụ củng cố thế lực Cộng Sản hơn quyền lợi dân tộc nên dù luôn kêu gọi liên hiệp, hòa giải vẫn khăng khăng bảo vệ thế độc chiếm quyền hành, cắt đứt mọi điều kiện hình thành một khối dân tộc đoàn kết thực sự, kể cả bằng cái giá là chia đôi lãnh thổ. <br />Hiệp định Genève 1954 đã đem lại cho Hồ Chí Minh một nửa phần đất nước tựa lưng vào hậu phương Trung Cộng để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp nối của cuộc chiến cục bộ tại Đông Nam Á trong cách mạng thế giới, đẩy Việt Nam vào cục diện tranh chấp mới trong cuộc chiến ý thức hệ giữa Cộng Sản và thế giới tự do. Đây cũng là thời kỳ tranh đấu thứ ba của Hồ Chí Minh.<br />– Thời kỳ thứ ba khởi từ 1954 với nhiệm vụ trước mắt là “chiếu cố miền Nam” theo nghị quyết của Đảng Cộng Sản. Trong thời kỳ này, bộ máy quyền lực tại miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh tiếp tục được vận dụng gần như không rời phương hướng cũ. Các chính sách rèn cán chỉnh quân, thanh lọc hàng ngũ, cải cách ruộng đất, cải tạo thương nghiệp… nhắm mục tiêu chủ yếu là củng cố tổ chức và quyền lực cho Cộng Sản đã làm tê liệt mọi sinh hoạt xã hội đồng thời gieo rắc thảm họa tang tóc khắp nơi. <br />Kết luận này không do gán ghép để chỉ trích Hồ Chí Minh mà được nói lên từ thực tế xã hội miền Bắc qua ghi nhận của chính các đảng viên Cộng Sản. <br />Theo Bùi Tín, thực tế đã dẫn đến những nỗi khổ ải của nhân dân, sự đổ vỡ của nền kinh tế, sự lạc hậu triền miên của xã hội, tình trạng nghèo đói và bất công của số đông là những thất bại nặng nề mà Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo đảng Cộng Sản chịu hoàn toàn trách nhiệm dù cho ông có thiện chí, có mong muốn tốt đi nữa. (12) <br />Ngày 29-10-1956, trước công chúng tại sân vận động Hàng Đẫy Hà Nội, Võ Nguyên Giáp đã nói rõ hơn về nguyên nhân dẫn đến những thất bại đó: “Chúng ta đã giết quá nhiều người lương thiện ... chỗ nào cũng thấy địch và dùng tới khủng bố tràn lan ... Khi chỉnh đảng, chúng ta quá chú trọng tới giai cấp xã hội thay vì chỉ căn cứ vào khả năng chính trị mà thôi. Thay vì lấy giáo dục làm chính, ta chỉ dùng tới những biện pháp tổ chức như phạt kỷ luật, khai trừ, xử tử, giải tán tổ chức chi nhánh đảng hay những chi bộ đảng. Tệ hơn nữa, tra tấn được coi như việc bình thường trong thời gian chỉnh đốn tổ chức đảng.” (13)<br />Việc xây dựng miền Bắc theo hướng củng cố và bành trướng sức mạnh cho đảng Cộng Sản bằng mọi cách, kể cả chém giết, dẫn đến một xã hội “sống kín mít…giống như đứng dưới đáy giếng. Ăn, mặc, ở, quan hệ với nhau coi như ổn, không thành vấn đề. Mặc gần như đồng phục, ăn uống cũng gần giống nhau, theo mức của tem phiếu. Lấy vợ lấy chồng cũng giống nhau, được phép của đảng, của tổ chức, đám cưới đơn sơ giản dị… không cần có động cơ vun đắp lứa đôi… chẳng khác gì xưa bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Nay là tổ chức đặt đâu, đảng đặt đâu xin ngồi nguyên đấy cho yên phận…Thế là trong gần 30 năm, do điều kiện chiến tranh, do chính sách bế quan tỏa cảng, hàng chục triệu nhân dân Việt Nam bị tước quyền được là công dân thế giới …Lý lịch là bản mệnh cán bộ và công dân. Nhận xét của cơ quan tổ chức cán bộ và cơ quan công an là có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh chính trị mỗi người. Đối với công dân được nhận xét là trung thành với chế độ, thông suốt chính sách của đảng và nhà nước là điểm son. Đối với cán bộ thì lập trường chính trị vững vàng, thông suốt đường lối chính sách, tin tưởng ở đảng và nhà nước, không có gì vướng mắc… là điểm ưu. (14) <br />Kiểu mẫu xã hội đó chắc chắn không cần thiết và cũng không phù hợp với nguyện vọng sống bình thường của con người ở mọi nơi, nhưng cần thiết cho đảng Cộng Sản Việt Nam để đẩy mạnh đấu tranh giai cấp với mục tiêu trước mắt là “chiếu cố miền Nam”. <br />Biến xã hội miền Bắc thành trại lính là điều kiện bảo đảm cho sự tiến hành chính sách chiếu cố miền Nam bằng bạo lực. Đảng Cộng Sản đã trù liệu chiến tranh từ khi ký hiệp định Genève 1954 với kế hoạch chôn giấu vũ khí, cài đặt “cơ sở” tại miền Nam và chiến dịch dựng vợ gả chồng cho cán binh trước khi tập kết ra Bắc để tạo tương quan tình cảm… <br />Hơn ai hết, Hồ Chí Minh và các đồng chí đã nhìn thấy sự từ khước chủ nghĩa Cộng Sản của đa số dân chúng, nhất là của những phần tử dân tộc yêu nước đang nắm quyền ở miền Nam, sau quá nhiều kinh nghiệm đoàn kết bi thảm với Cộng Sản trước và sau 1945. <br />Cũng hơn ai hết, Hồ Chí Minh và các đồng chí tự hiểu họ đã chọn con đường chỉ có một hướng nhắm duy nhất là tiêu diệt mọi xu hướng dị biệt. Khi các chiêu bài liên hiệp, đoàn kết để hãm hại ngầm không còn điều kiện tiến hành thì giải pháp duy nhất là sử dụng binh lực. <br />Bởi vì đích nhắm cuối cùng của Hồ Chí Minh với tư cách đảng viên Cộng Sản là góp phần vào cách mạng thế giới để tạo dựng một thế giới đại đồng dưới nền chuyên chính vô sản. Trong khuôn khổ cách mạng đó, mọi người Cộng Sản đều có nhiệm vụ tham gia trận chiến liên tục trường kỳ cho tới khi đạt thắng lợi cuối cùng. <br />Cho nên, phát động chiến tranh để chiếu cố miền Nam trở thành tất yếu, ngoài trừ trường hợp không thể xẩy ra là Hồ Chí Minh từ bỏ khối Cộng Sản để đặt mục tiêu phụng sự dân tộc lên hàng đầu và chân thành đoàn kết cùng mọi phần tử yêu nước khác chính kiến. <br />Bùi Tín vẫn nghĩ Hồ Chí Minh là người yêu nước vẫn phải nhận định: “Trở nên cán bộ của Quốc Tế Cộng Sản Ba, ông bị ảnh hưởng lớn của Stalin và Mao Trạch Đông, đích của ông là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho đất nước và đích cao hơn nữa là cách mạng vô sản ở Đông Dương, ở châu Á và toàn thế giới… Sùng bái “mặt trời phương Đông”, nể sợ “thiên triều” Bắc Kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông, cho cả đảng Cộng Sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ. Chính ông cũng bị cỗ xe Mác-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông đè lên đầu trong khi cả Đảng Cộng Sản và xã hội bị cỗ xe ấy nghiền nát”. (15) <br />Tuy thế, Bùi Tín cho rằng “không phải bất cứ lúc nào Hồ Chí Minh cũng chỉ là tay sai ngoan ngoãn, trung thành và mù quáng của Đệ Tam Quốc Tế.” Chứng cớ được viện dẫn là Hồ Chí Minh đã giữ thái độ tự chủ trong lãnh đạo chiến tranh. Không nghe theo lời Mao và Lâm Bưu khuyên là ở miền Nam chỉ nên duy trì chiến tranh du kích, chỉ nên đánh ở cỡ đại đội … cũng không nghe theo lời Liên Xô khuyên là nên hạ súng tìm giải pháp hòa bình vì Việt Nam không thể chống nổi Mỹ về mặt quân sự. (16) <br />Trong tác phẩm của mình, Bùi Tín nhắc lại sự việc này nhiều lần, coi là ưu điểm của Hồ Chí Minh – “cùng với một số người lãnh đạo khác trong Đảng không mù quáng theo lời khuyên của Mao là chỉ nên tiến hành chiến tranh du kích ở miền Nam và cũng không theo sức ép của Liên Xô là phải ngừng chiến tranh để tìm một giải pháp thương lượng nhằm chung sống hòa bình bằng mọi giá”. (17) <br />Cứ cho rằng đây là ưu điểm của Hồ Chí Minh thì đã dẫn đến kết quả thực tế ra sao? <br />Trước hết, Hồ Chí Minh vẫn đặt Việt Nam vào cuộc chiến ý thức hệ với mục tiêu bành trướng ảnh hưởng Cộng Sản thay vì đặt quyền lợi dân tộc vào hướng nhắm cuối cùng để giải quyết mọi mâu thuẫn với các lực lượng đối lập. <br />Vì điều mà Bùi Tín kể như ưu điểm do sáng suốt, không mù quáng của Hồ Chí Minh chỉ là từ chối thương lượng và cương quyết mở lớn qui mô chiến tranh. <br />Hồ Chí Minh và các đồng chí đã đạt ý muốn là đánh bại các phe phái đối lập, giành trọn quyền lãnh đạo để thành lập nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng cái giá thực tế mà dân tộc Việt Nam phải trả từ 1954 tới 1975 khó thể diễn tả là gì ngoài thảm cảnh tương tàn bi đát kinh hoàng với tất cả mọi người dân trên khắp các miền đất nước. <br />Thời kỳ thứ ba trong cuộc đời tranh đấu của Hồ Chí Minh tại miền Bắc là các chính sách chỉnh đảng, chỉnh quân, cải cách ruộng đất, cải tạo thương nghiệp, ba khoan ba chống, ba đảm đang ba sẵn sàng… tới nay vẫn là ác mộng của nhiều người dân khi nhớ lại và còn lưu dấu trong tác phẩm của nhiều tác giả như Dương Thu Hương, Phùng Thế Lộc, Tạ Duy Anh, Bùi Ngọc Tấn… hay trong hồi ký của Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên…<br />Với miền Nam là những ngày đêm khắc khoải âu lo trước tai họa pháo kích bất ngờ, trước nguy cơ khủng bố ám sát và cảnh sống hãi hùng dưới những trận mưa bom đạn luôn sẵn sàng ập tới… <br />Hậu quả thực tế của thời kỳ này do ưu điểm trong chỉ đạo chiến tranh của Hồ Chí Minh là mọi nỗ lực xây dựng đất nước trên cả hai miền Nam Bắc bị hạn chế tối đa, ruộng đồng trở thành chiến địa, nhà cửa bị tàn phá với hàng triệu người bị sát hại và hàng triệu người khác trở thành tàn phế, kéo lê cuộc sống vô dụng đau đớn…<br />Theo Bùi Tín, đây là tấn bi kịch của cả dân tộc bắt nguồn từ lòng tin tuyệt đối của Hồ Chí Minh đặt vào chủ nghĩa Cộng Sản: “Bi kịch của cả dân tộc cũng là của ông Hồ là chính ông đã đi đầu trong việc đưa chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao vào Việt Nam”. Bùi Tín nhắc lại ý kiến của Phan Chu Trinh về chọn lựa của Hồ Chí Minh ngay từ năm 1921 và viết: “Cụ Phan phê phán Nguyễn Ái Quốc về phương pháp cách mạng… một mực can ngăn Nguyễn Ái Quốc chớ chủ quan cho phương pháp của mình là đúng. Cụ còn phê phán Nguyễn là xưa nay, từ Âu sang Á, chưa ai làm cái việc như Nguyễn làm… Con đường cụ Phan chủ trương gần giống như con đường của các ông Gandhi và Nehru ở Ấn Độ. Đó là con đường bất bạo động, con đường nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, mở mang học vấn, cổ động tinh thần đấu tranh, đồng thời tranh thủ các thế lực dân chủ và tiến bộ ở chính quốc…Nếu như hồi ấy, đường lối đấu tranh đại loại như của cụ Phan đề xướng được chấp nhận và thành hiện thực thì đất nước ta rất có thể đã khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất, có dân chủ và phát triển, có thể tránh được chiến tranh và tránh bị cỗ máy nghiền mà chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao đã đưa đến thông qua đảng Cộng Sản với biết bao hậu quả nặng nề chưa biết đến bao giờ mới khắc phục được…” (18) <br />Mong mỏi của Bùi Tín không xa với mong mỏi của mọi người nhưng không trở thành hiện thực, vì Việt Nam đã được gắn vào cuộc chiến toàn cầu giữa khối Cộng Sản và thế giới tự do theo đường lối lãnh đạo của Hồ Chí Minh. <br />Từ giữa thập niên 20, Hồ Chí Minh đã tận lực đấu tranh đưa đất nước vào chiều hướng dẫn tới thực tế như được diễn tả. Thực tế này không thể là nền tảng vững chắc cho sự xưng tụng Hồ Chí Minh là nhà ái quốc hay đại anh hùng của dân tộc Việt Nam. Dù muốn dù không, sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã gắn liền với những tàn phá khủng khiếp mà dân tộc phải gánh chịu. <br />Tuy nhiên, sẽ bất công nếu khẳng định Hồ Chí Minh chỉ là kẻ nuôi mưu đồ phản dân, hại nước. Trên thực tế Hồ Chí Minh đã bước vào đấu tranh do thúc đẩy của lòng yêu nước, góp mặt bên cạnh các lãnh tụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. <br />Sự thay đổi sau đó không hẳn do Hồ Chí Minh muốn bán rẻ đất nước cho ngoại bang như nhiều người đã kết buộc mà chủ yếu do niềm tin mù quáng ở khám phá của mình để chọn lựa một lý tưởng bôi xóa dân tộc trong quan niệm phân chia giai cấp. <br />Hồ Chí Minh chắc chắn không muốn bán rẻ đất nước, nhưng đã biến giai cấp vô sản thành toàn thể dân tộc. Ngoài giai cấp vô sản, mọi thành phần giai cấp khác đều trở thành rắn độc trước mắt Hồ Chí Minh. <br />Quan niệm về đồng chí, đồng bào của Hồ Chí Minh đã đặt trên một nền tảng tư duy khác biệt hoàn toàn so với nền tảng tư duy thông thường. Khi triệt hạ những người yêu nước, Hồ Chí Minh có thể chỉ nghĩ đang thực hiện sứ mạng triệt hạ những con rắn độc để đem lại an toàn cho đời sống của con người đã được nêu rõ là chỉ gồm giai cấp vô sản. <br />Trong hoàn cảnh đó, không thể phủ nhận những ý định tốt – dù là mù quáng – để quả quyết Hồ Chí Minh chỉ có ý định phản dân hại nước. Nhưng, ý định tốt hay xấu không thể là nền tảng để đánh giá con người, nhất là những con người mà cuộc đời gắn liền vào lịch sử. <br />Trên thực tế, vẫn diễn ra không ít trường hợp “nền hỏa ngục lát bằng những ý định tốt” – L’enfer est pavé de bonnes intentions”. <br />Cho nên, tư tưởng gia Revel đã định nghĩa “Lịch sử không phải là kết quả do những ý định của người ta mà là kết quả do những hành động của họ”. <br />Những bạo chúa trong lịch sử nhânloại như Tần Thủy Hoàng, Néron hay những lãnh tụ khát máu như Hitler, Staline … vẫn có thể theo đuổi ý định tốt nào đó, nhưng ý định này không thể xóa nhòa kết quả hành động của họ là hàng triệu nạn nhân bị tàn sát và những tai họa kinh hoàng mà con người phải gánh chịu. Do đó, đánh giá về Hồ Chí Minh, Revel không nghĩ Hồ Chí Minh có ý định xấu khi chọn lựa lý tưởng Cộng Sản và tôn thờ Lenin như thầy, như cha...<br />Vào lúc chọn lựa, Hồ Chí Minh có thể đang nuôi nhiều ý định tốt nhưng kết quả hành động rõ ràng chỉ đưa lại những thảm họa cho dân tộc Việt Nam: “…Những kết quả còn đó: Nô lệ, xương máu, chết chóc và đói khát. Đã trưng dụng cuộc chiến đấu chống thực dân để đưa đến một tình trạng suy sụp như thế thì chẳng còn cách gì chống chế để chạy tội cả. Trái lại, đây là một trường hợp phạm tội gia trọng, một vụ đánh cắp, một vụ lừa bịp không hơn không kém.”<br />So với mọi cách đánh giá đã có, lối nhìn theo tiêu chuẩn thực tế của Revel là cách đánh giá trung thực và công bằng nhất, vì không mang nặng ảnh hưởng của những thiên kiến có tính gán ghép chủ quan. <br />Nhưng, khó thể gọi kẻ đã hành động lừa bịp, đã phạm tội gia trọng là anh hùng yêu nước, dù trong khi hành động vẫn có thể có ý định tốt là muốn phục vụ cho một mục tiêu lý tưởng nào đó. Vả lại, trong mỗi con người đều tiềm ẩn hai mặt tốt và xấu với những xu hướng khi nhịp nhàng ăn khớp với nhau, khi xung khắc loại trừ nhau. <br />Cá nhân Hồ Chí Minh dù là một chính trị gia, một lãnh tụ hẳn cũng có những xu hướng trái ngược, một bên là ông thánh, một bên là con quỷ, hay nói theo Pascal, một bên là thiên thần, một bên là con thú. Bi kịch là lòng ham muốn trở thành thiên thần quá mạnh lại dễ biến con người thành con thú. <br />Với cách đánh giá này, các cơ sở khác đã được nêu ra như lòng ái quốc bẩm sinh khiến Hồ Chí Minh sớm chọn ý hướng hy sinh, sống đời gian khổ vì dân, vì nước và được toàn dân sùng kính, triệt để tin theo không còn đáng kể nữa. <br />Dù vậy, vẫn có thể nhìn lại các luận cứ viện dẫn để nhận diện thêm về đối tượng. <br />Duiker là tác giả tiêu biểu cho những người đề cao Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở này. Trong Ho Chi Minh, a life, Duiker dành nhiều trang tả thời thơ ấu của Hồ Chí Minh chìm ngập giữa tác động của lòng yêu nước và quả quyết Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra sự lạc hướng trong đấu tranh của các bậc tiền bối. <br />Theo Duiker, từ thuở mới lọt lòng, Hồ Chí Minh đã được mẹ ru bằng ca dao và những vần thơ Kiều rồi được nghe bà kể chuyện về các bậc anh hùng, được cha là một nhân sĩ yêu nước chống Pháp nhắc về các nhân vật lịch sử, được một người thợ rèn hàng xóm nói về các cuộc khởi nghĩa chống xâm lăng... <br />Trong không khí un đúc này, Hồ Chí Minh sớm nẩy nở tinh thần cứu nước và sớm nhận ra các phong trào đấu tranh lúc đó của các lãnh tụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… đều sai hướng nên năm 1911 đã xuất ngoại tự tìm lấy con đường cứu nước để trở thành nhà ái quốc vĩ đại, trở thành vị anh hùng dân tộc của Việt Nam. <br />Duiker trưng dẫn nhiều nguồn tài liệu khi viết Ho Chi Minh, a life, nhưng những trang viết về đoạn đời này của Hồ Chí Minh chỉ phản ảnh trọn vẹn tài liệu của các sử gia Cộng Sản Việt Nam. <br />Bùi Tín tuy ngưỡng mộ Hồ Chí Minh đã phát biểu về khuôn mẫu này như sau: “Những người viết sử ở Hà Nội theo sự chỉ đạo của Đảng đã tô vẽ ông Nguyễn Sinh Sắc thành một nhân vật cách mạng kiên cường chống thực dân nên bị mất chức, là cố tình bịa đặt sai sự thật. Việc nêu lên chuyện anh Nguyễn Tất Thành vì thấy cách mạng bế tắc do chủ trương Đông Du và cải lương thất bại nên ra đi để tìm đường cứu nước là cố nói lấy được nhằm tô vẽ lãnh tụ đã giác ngộ cách mạng từ lúc còn rất trẻ cũng là việc sai sự thật lịch sử”.<br />Dựa theo các tài liệu xác tín (19) do sử gia Daniel Hemery sưu tập và nhiều nguồn tài liệu khác, Bùi Tín cho thấy cuộc đời thực của Hồ Chí Minh tương phản hoàn toàn với bức họa của William J. Duiker. <br />Trên thực tế, Nguyễn Sinh Sắc (cha của Hồ Chí Minh) chưa từng tham gia đấu tranh. Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1863, mồ côi cha mẹ năm 1868, được ông đồ Hoàng Xuân Đường đem về nuôi dạy. Năm 1881, Nguyễn Sinh Sắc thành con rể của Hoàng Xuân Đường, được cha mẹ vợ tặng cho một số vốn ra sống riêng, theo đuổi con đường cử nghiệp nhưng tiếp tục lận đận. Năm 1893, ông đồ Hoàng Xuân Đường qua đời nên Nguyễn Sinh Sắc cùng vợ con trở về sống chung với mẹ vợ. <br />Ngoài 30 tuổi, Nguyễn Sinh Sắc mới đậu cử nhân kỳ thi Hương 1894, nhưng năm 1895 thi trượt kỳ thi Hội. <br />Năm 1898, Nguyễn Sinh Sắc lại thi trượt nên đổi tên là Nguyễn Sinh Huy và đổi tên hai con trai từ Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung thành Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn Tất Thành.<br />Năm 1901, Nguyễn Sinh Huy thi Hội đậu Phó Bảng (20) và theo phép nước lúc đó, dân làng Kim Liên phải cất cho vị tân khoa một căn nhà lá 5 gian. Năm 1902, vợ Nguyễn Sinh Huy qua đời và năm 1904, Nguyễn Sinh Huy được bổ nhiệm làm một viên chức nhỏ trong bộ Lễ nên dẫn các con về Huế. <br />Tháng 5-1909, Nguyễn Sinh Huy được cử làm tri huyện Bình Khê, Bình Định, nhưng năm 1910 bị sa thải vì tội say rượu đánh đập đến chết một nông dân tên Tạ Đức Quang. <br />Sở Mật Thám mở cuộc điều tra xác định ngộ sát do Nguyễn Sinh Huy say rượu, nhưng Hội Đồng Nhiếp Chính ở Huế quyết định tước mọi chức quyền. Thế là gần 50 tuổi bị thu hồi ấn tín, sa thải khỏi quan ngạch, Nguyễn Sinh Huy vỡ mộng quan trường, lâm cảnh sinh kế cùng quẫn phải về Lộc Ninh làm giám thị cho một đồn điền cao su. Tại đây, Nguyễn Sinh Huy đã nhiều lần gửi đơn lên Khâm Sứ Trung Kỳ tả cảnh nghèo khó của mình để xin được giao cho một công việc nào đó. (21)<br />Bùi Tín viết về Hồ Chí Minh thuở đó đại để như sau: “Năm 1911, khi anh thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu xuất dương, anh chưa nghĩ đó là đi tìm đường cứu nước…Bằng cấp anh có trong tay chỉ là bằng Certificat (tiểu học)…Anh vào trường Dục Thanh, Phan Thiết làm trợ giáo là do sinh kế. Bi kịch gia đình đang tác động mạnh mẽ đến anh. Ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượu rất nặng…Bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông bố đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn… Cho nên khi xuống tàu xuất dương, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đang ở tâm trạng bế tắc, việc học dở dang, ông thân sinh bị “đứt gánh” đột nhiên trên con đường hoạn lộ. Anh ra đi để cứu mình trước hết, tìm việc tìm nghề và phần nào để giúp gia đình… <br />Cho nên ngay khi vừa đến Pháp, ngày 15-9-1911, anh đã nộp đơn xin vào trường Thuộc Địa. Anh bị từ chối vì không thuộc tầng lớp con cháu quan lại cao cấp bản xứ và không có học vấn khá. Từ đó, anh trở thành bồi tàu với mối lo lớn nhất là sự sống của gia đình và niềm mong ước là có lúc bản thân sẽ trở thành một maitre d’hotel… <br />Cuối năm 1912, khi tới New York, anh đã liên tiếp gửi 2 lá thư cho Khâm Sứ Trung Kỳ kèm theo số tiền 15 đồng bạc Đông Dương nhờ chuyển cho cha và “cầu mong Ngài Khâm Sứ vui lòng cho cha tôi được nhận một công việc như Thừa Biện ở các Bộ” (22)… Phải đến sau đệ nhất thế chiến 1914-1918, tư tưởng chính trị của Nguyễn Tất Thành mới thành hình rõ nét, sau khi tiếp xúc với Đảng Xã Hội, tiếp đó là Đảng Cộng Sản Pháp”. <br />Theo Bùi Tín, Đảng đã chỉ thị cho các sử gia dựng lên khuôn mẫu nhân vật Hồ Chí Minh thuộc một gia đình chí sĩ cách mạng, được un đúc lòng yêu nước từ tuổi ấu thơ, cha bị cách chức vì chống chính sách sưu cao thuế nặng đối với dân chúng nên sớm nuôi chí đấu tranh rời quê hương đi tìm phương cứu nước cứu dân…<br />Không thể ngờ vực việc Đảng ra chỉ thị nhưng không thể quên rằng khuôn mẫu trên không do Đảng hay các sử gia mà do chính Hồ Chí Minh đã dựng lên trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch được Hồ Chí Minh viết dưới bút hiệu ẩn danh Trần Dân Tiên. Con người yêu nước từ thuở sơ sinh và sáng suốt hơn bất kỳ người Việt Nam nào của thế kỷ 20 chỉ là con người trong tưởng tượng của Hồ Chí Minh, sau đó được các nỗ lực tuyên truyền Cộng Sản trên khắp thế giới tô vẽ lại và Duiker tin theo. Con người này rõ ràng khác rất xa với con người viết thư cho một quan chức thuộc địa cầu xin ân huệ với lời lẽ như “sự quan tâm cao quý của Ngài” và “xin Ngài nhận những lời chào kính cẩn của kẻ dân-con và kẻ tôi tớ chịu ơn Ngài”… Kẻ có lời lẽ đó không thể là khuôn mẫu anh hùng từ tuổi thiếu niên đã quyết bỏ trọn đời đấu tranh cứu dân cứu nước. <br />Duiker cùng các tác giả xưng tụng Hồ Chí Minh cũng nhắc rằng Hồ Chí Minh đã trải nhiều gian khổ, đã hy sinh mọi sinh thú cá nhân tận tụy đấu tranh để cuối cùng trở thành nhà ái quốc vĩ đại, là vị anh hùng dân tộc lớn nhất trong lịch sử Việt Nam …<br />Trên thực tế, trọn đời đấu tranh của Hồ Chí Minh chỉ là lãnh lương của Đệ Tam Quốc Tế, đi lại đó đây như một du khách từ Pháp, qua Nga, qua Đức, qua Trung Hoa, qua Đông Nam Á… với cả nửa tá người tình. Gian khổ cùng cực của Hồ Chí Minh chỉ là 18 tháng bị Trung Hoa Dân Quốc bắt giữ do nhập cảnh trái phép và 13 tháng nằm trong nhà giam Hương Cảng của người Anh vì là tay sai Nga bị nghi ngờ muốn phá hoại Hương Cảng. <br />Hồ Chí Minh bị bắt không do đấu tranh cho đất nước, chưa qua một ngày trong ngục tù thực dân, không chịu một ngọn đòn tra tấn nào, dù chỉ là một cái bạt tai. <br />Cảnh ở tù được chính Hồ Chí Minh kể lại là “mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò, cơm trắng... Mỗi ngày, chúng cho ông ra sân đi bách bộ mười lăm phút… Những buổi đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất trong khi ở tù. Vì bọn mật thám thường mời ông hút thuốc lá Anh…” (23)<br />Cảnh tù đầy đó so với cảnh sống của người dân Việt Nam hiện nay vẫn là cảnh thần tiên nên khó thể trở thành mức hy sinh gian khổ đủ khiến toàn dân kính phục tri ân người phải trải qua để xưng tụng là Cha già dân tộc. Danh hiệu này cũng do Hồ Chí Minh tự gán qua cuốn sách viết về mình và được các họng loa tuyên truyền đổi thành lời xưng tụng của nhân dân. <br />Riêng người dân nghĩ về Hồ Chí Minh ra sao thì Vũ Thư Hiên từng có thời quấn quít bên Hồ Chí Minh, coi Hồ Chí Minh như người bác thực sự đã ghi lại lời của một bạn thân: “Chúng ta nhầm…Ông Hồ cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là Quỷ Vương” (24))<br />Thái độ rõ rệt nhất đối với Hồ Chí Minh do thực tế nêu lên là hơn một triệu người dân miền Bắc ào ạt chạy vào Nam sau hiệp định Genève 1954 khi biết miền Bắc sẽ đặt dưới sự lãnh đạo của “vị Cha Già Dân Tộc” và chọn lựa tương tự của số đông gấp nhiều lần với những nguy hiểm lớn gấp nhiều lần sau tháng 4-1975 tạo thành những trang sử được Michel Tauriac diễn tả “đó là lịch sử của những người được gọi là boat people và còn được mệnh danh là những kẻ chết đắm của tự do. Lịch sử của một dân tộc đã bị tàn hại bởi thứ chính trị hận thù và phân rẽ của chủ nghĩa Cộng Sản” (25))< ><br />Diễn tả vắn gọn của Michel Tauriac có thể coi là bao quát hết diễn tiến thực tế lịch sử Việt Nam từ giữa thập niên 1920 về sau. Mức tàn phá của thứ chính trị hận thù và phân rẽ theo quan điểm Cộng Sản trước hết đã đánh phá hàng ngũ người Việt Nam yêu nước đang đấu tranh đòi độc lập, khi Hồ Chí Minh hoạt động bí mật. Sau đó, khi Hồ Chí Minh giành được chính quyền thì toàn thể dân tộc trở thành đội ngũ tiền phong xung trận trong cuộc chiến ý thức hệ giữa hai khối cực quyền trên thế giới. <br />Tính chất kháng chiến giành độc lập được gán cho giai đoạn 1945-1954 và kháng chiến chống xâm lăng được gán cho giai đoạn 1954-1975 không hề phản ảnh thực tế mà chỉ là kết quả của một trận chiến tuyên truyền với phạm vi bao trùm dư luận khắp thế giới. <br />Trong giai đoạn 1945-1954, sự hiện diện của quân đội Pháp bên cạnh hàng ngũ yêu nước và sự có mặt của những người yêu nước trong hàng ngũ kháng chiến khiến các luận điệu che giấu tính cục bộ của cuộc chiến ý thức hệ bằng chiêu bài giải phóng dân tộc dễ được chấp nhận. <br />Trong giai đoạn 1954-1975, sự có mặt của quân đội Mỹ bên cạnh quân đội miền Nam tiếp tục bị khai thác theo hướng cũ với chiêu bài chống ngoại xâm cũng dễ thu đạt hiệu quả do các nỗ lực tuyên truyền của Cộng Sản. <br />Có thể nói không sợ lầm lẫn rằng trong cuộc chiến ý thức hệ, Cộng Sản luôn nắm ưu thế tuyệt đối về tuyên truyền. <br />Lý do trước hết là thế giới tự do không đặt nặng việc tuyên truyền trong khi Cộng Sản coi tuyên truyền là mặt trận quan trọng có tầm mức quyết định lớn hơn các mặt trận sử dụng bom đạn. <br />Lý do kế tiếp là Cộng Sản đã có một quá trình kết khối với kỷ luật rõ ràng là tuân hành mọi chỉ thị từ Liên Xô khiến mọi hành vi đều phối hợp nhịp nhàng với qui mô phủ khắp thế giới nên một luận điệu tuyên truyền được đưa ra ở nơi này sẽ lập tức được lập lại ở nhiều nơi khác để tăng cường tối đa hiệu quả. <br />Lý do khác không kém quan trọng là kỷ luật thép trong chính sách cai trị tại các quốc gia Cộng Sản và không khí sinh hoạt dân chủ tại phía thế giới tự do. Mọi phương tiện truyền thông, thậm chí mọi lời nói của từng cá nhân tại các quốc gia Cộng Sản đều phải lập lại quan điểm của giới lãnh đạo trong khi người dân phía thế giới tự do có toàn quyền bày tỏ chính kiến theo bất kỳ quan điểm nào. Ưu điểm trong sinh hoạt dân chủ đã mở ra khoảng trống khổng lồ cho Cộng Sản tấn công tuyên truyền tại bất kỳ nơi nào, với bất kỳ thành phần quần chúng nào.<br />Cuối cùng, cuộc chiến Việt Nam với tính cục bộ trong cuộc chiến ý thức hệ đã thành cuộc chiến của mọi quốc gia Cộng Sản, mọi đảng Cộng Sản, mọi tổ chức Cộng Sản. Tất cả đều đứng trước đòi hỏi phải góp phần, vì là nhiệm vụ chung trên đường đấu tranh giai cấp để giành thắng lợi cuối cùng cho lý tưởng Cộng Sản, nên hợp quần chiến đấu trong mặt trận tuyên truyền bằng những luận điệu xuyên tạc thực tế, vu cáo bôi nhọ tạo một dư luận dẫn tới cô lập đối phương. <br />Trong diễn tiến tình hình, vũ khí chiến cụ do Liên Xô, Trung Cộng tiếp trợ gần như chỉ đủ giúp Cộng Sản Việt Nam mở các trận đánh duy trì tình trạng chiến tranh để toàn khối Cộng Sản khai thác vào mặt trận tuyên truyền với tầm mức quyết định kết quả cuộc chiến. <br />Trên mặt trận này, Hồ Chí Minh đã góp phần không nhỏ là dựng bản thân mình thành một người yêu nước, một anh hùng dân tộc để qua đó thu hút sự hỗ trợ của dư luận quốc tế tạo thành áp lực chính trị nặng nề cho đối phương. Khuôn mẫu nhân vật yêu nước Hồ Chí Minh do Hồ Chí Minh nêu lên đã được chép lại ở khắp nơi và chinh phục sự ngưỡng mộ của nhiều người. <br />Cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch ký tên tác giả Trần Dân Tiên chính là công binh xưởng số một, lò đúc võ khí vô tận không ngừng được tiếp tế tài nguyên dồi dào của bộ chỉ huy chiến tranh ý thức hệ toàn cầu ở Mạc Tư Khoa. (26)<br />Khuôn mẫu nhân vật yêu nước Hồ Chí Minh khiến nhiều người không nhìn ra một phần lý do khiến người Pháp ngay từ 1945 không muốn trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam là mối lo Liên Xô bành trướng qua Đông Nam Á nên đã phủ nhận tính cục bộ trong chiến tranh ý thức hệ của cuộc chiến Đông Dương I. <br />Không riêng dư luận quốc tế mà nhiều người ở trong nước cũng bị chinh phục bởi khuôn mẫu này. Do đó, đã có những người yêu nước đứng trong hàng ngũ do Hồ Chí Minh lãnh đạo và không thiếu người xin gia nhập đảng Cộng Sản vì tin rằng Đảng đang chiến đấu giành độc lập cho đất nước. Gương hy sinh chiến đấu của những người này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo sự nể phục cho dư luận đối với lập trường cứu nước của đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh.<br />Thực ra, Hồ Chí Minh không chỉ tạo ra khuôn mẫu yêu nước cho bản thân bằng cuốn sách ký tên Trần Dân Tiên mà bằng rất nhiều thủ đoạn khác. <br />Cuối năm 1945, Hồ Chí Minh từng ôm Nguyễn Hải Thần khóc nức nở với lời nói tha thiết: “Cả Nam Bộ lại lọt vào tay thực dân Pháp. Mong cụ và anh em Việt Nam Quốc Dân Đảng hãy vì Tổ Quốc Việt Nam gánh vác trách nhiệm chung với chúng tôi”. Tính chất của lời nói đã được chứng minh bằng hành vi thực tế đối với Nguyễn Hải Thần và Việt Nam Quốc Dân Đảng vào mấy tháng sau. <br />Trước đó, Hồ Chí Minh từng tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản để chứng tỏ một lòng vì dân tộc, trong khi trên thực tế đảng Cộng Sản vẫn tiếp tục hoạt động và năm 1951 đổi tên để tái xuất hiện công khai. Về sự việc này, Nguyễn Minh Cần đã ghi lại lời lẽ và cử chỉ của Hồ Chí Minh trong hội nghị quyết định đổi tên Đảng: “Ông giơ cao nắp hộp thuốc lá thơm Craven "A" của ông lên về phía có nhãn hiệu thuốc và nói: "Đây là Đảng Cộng sản", rồi ông quay phía trong nắp không có nhãn hiệu và nói: "Còn đây là đảng Lao Động". Ông lại lớn tiếng hỏi: "Thế thì các cô các chú có thấy khác gì nhau không?" Cả hội trường đồng thanh đáp vang: "Dạ không ạ." Ông nghiêm nghị nói: "Các cô các chú nên biết rằng việc đổi tên đảng ta, bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi (chúng tôi được biết hồi ấy ông vừa đi Moskva về), các đồng chí đã đồng ý. Các cô các chú nên biết rằng: Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được." Cả hội trường vỗ tay rầm rầm.” (27) <br />Cung cách và hành vi của Hồ Chí Minh nếu được những người như Douglas Pike, Robert Shaplen, Halberstam…coi là biểu hiện mức độ tài năng siêu việt thì bị nhiều người khác, thậm chí cả Honey, Sainteny… nhìn thành hiểm ác, xảo trá. Những hướng nhìn đó không đánh giá chính xác con người Hồ Chí Minh để giải đáp nghi vấn vẫn treo lơ lửng là nhà anh hùng cứu nước hay kẻ đại phản quốc. <br />Thay vì khen chê theo những tiêu chuẩn đạo đức hay khả năng cần đặt mọi cung cách, ngôn ngữ và hành vi đó thành nền tảng cho sự xác định con đường phục vụ và phương pháp đấu tranh của Hồ Chí Minh. <br />Bằng thực tế, Hồ Chí Minh cho thấy đã gắn bó với đức tin của một tín đồ vào tín ngưỡng Cộng Sản từ năm 1921. Sau sự chọn lựa này, Hồ Chí Minh đã tận tụy không ngừng trong việc thực hiện sứ mạng tông đồ nên ngay từ năm 1926, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở các đồng chí rằng dân tộc chỉ là màu sắc và chủ nghĩa ái quốc là điều nguy hiểm. <br />Bởi vì, trong giáo điều của tín ngưỡng Cộng Sản không hề có quốc gia dân tộc mà chỉ có giai cấp và giai cấp duy nhất được quyền tồn tại là giai cấp vô sản theo đúng quy luật biện chứng lịch sử. Các giai cấp khác bắt buộc phải bị đào thải theo những ý thức hệ phụ thuộc bao gồm mọi hình thái chủ nghĩa đế quốc thực dân, quốc gia dân tộc… <br />Trước mắt Hồ Chí Minh chỉ còn duy nhất “chủ nghĩa Mác-Lenin là ánh sáng chân lý, là mặt trời đưa lại nguồn vui” và con đường phục vụ của Hồ Chí Minh hướng trọn về phía ánh sáng chân lý này.<br />Sở dĩ Hồ Chí Minh luôn xuất hiện dưới vóc dáng người yêu nước, một tín đồ dân tộc chủ nghĩa, vì theo nguyên tắc sách lược Lenin, phải thích ứng với thực tế từng giai đoạn để từng bước tiến lên. Không thể với một bước nhảy vọt hoặc theo một con đường thẳng tắp để đi từ chân lên đỉnh núi. Dù không muốn, vẫn phải tùy địa thế dựa theo các triền dốc, uốn theo các khúc quanh. Vóc dáng người yêu nước hay màu sắc dân tộc chính là những khúc quanh, những triền dốc bắt buộc phải bám theo trong phương pháp đấu tranh để đi tới mục tiêu cuối cùng. <br />Trên tờ Học Tập, cơ quan lý luận và tuyên huấn của đảng Cộng Sản Việt Nam, số tháng 1-1960 nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập đảng, Hồ Chí Minh đã viết: “Năm nay đảng ta 30 tuổi chẵn.... Chúng ta chân thành cảm ơn đảng Cộng Sản Liên Xô và đảng Cộng Sản Trung Quốc đã giúp ta tự rèn luyện thành một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.” <br />Trong cùng số báo đó, Lê Duẩn viết: “30 năm nay, lý luận khoa học Mác–Lênin luôn luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng ta” <br />Lênin đã phát biểu: “Chiến tranh lật đổ chế độ tư sản quốc tế là cuộc chiến tranh trăm phần khó khăn, lâu dài, phức tạp hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào giữa các quốc gia. Nếu ngay từ đầu đã từ bỏ không chịu dùng những con đường quanh co, khai thác các mối mâu thuẫn, xung đột quyền lợi thường chia rẽ các đối phương, không chịu thỏa hiệp ký kết thì có khác gì, trong một cuộc mạo hiểm leo núi chưa từng có ai đặt chân tới, mà lại từ chối ngay từ đầu, không chịu đi quanh co một đôi lúc và, đôi khi, quay đầu trở lại, để tìm một hướng đi mới?” (28)<br />Khai triển ý niệm trên, trong Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Stalin đã viết: “Nhiều người nghĩ rằng chủ nghĩa Lênin, nói chung, chống lại cải cách, hiệp ước và điều đình. Điều đó hoàn toàn sai. Người Bolshevick cũng biết rõ như ai rằng ở những hoàn cảnh nào đó, cải cách nói chung và điều giải, thỏa hiệp nói riêng, là điều cần thiết. Chiến sĩ cách mạng chấp nhận sự cải cách, để dùng làm một thứ mồi lửa phối hợp công tác bất hợp pháp, dùng làm nơi ẩn náu ngõ hầu tăng cường công tác bất hợp pháp, chuẩn bị quần chúng làm cách mạng lật đổ chế độ tư bản.” (29)<br />Mọi cung cách nói năng và hành động của Hồ Chí Minh trong diễn tiến tình hình Việt Nam kể từ thập niên 1920, chiếu theo diễn giải của Stalin, chỉ là những điều giải, thỏa hiệp mang tính ẩn náu trong từng giai đoạn hoặc các mồi lửa với mục đích tăng cường chuẩn bị lực lượng làm cách mạng lật đổ chế độ tư bản. <br />Trong trường hợp gạt bỏ nền tảng thực tế mà Revel đã nhắc tới để chỉ nhận diện Hồ Chí Minh trên nền tảng lý tưởng và phương pháp đấu tranh, việc xưng tụng Hồ Chí Minh là nhà đại ái quốc hay anh hùng dân tộc cũng hoàn toàn thiếu căn bản. <br />Hình ảnh chính xác nhất của Hồ Chí Minh vẫn là hình ảnh theo Krutshchev diễn tả: “Hồ Chí Minh là tông đồ nhiệt thành của tôn giáo Cộng Sản… là vị thánh của chủ nghĩa Cộng Sản, người nhiệt thành xả thân vì đại nghĩa Cộng Sản”. Vì thế, Krutshchev đã kêu gọi những người Cộng Sản: “Các bạn phải tôn kính người này, hãy quỳ gối trước ông ấy để tỏ lòng biết ơn về những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng Sản”. <br />Với Cộng Sản, dân tộc chỉ là một tập hợp đầy rẫy nọc rắn độc và chủ nghĩa yêu nước là điều nguy hiểm – như Hồ Chí Minh nhắc nhở – nên sự đóng góp lớn lao cho chủ nghĩa Cộng Sản của Hồ Chí Minh đến mức lãnh tụ Krutschev đòi các đồng chí phải quỳ gối tôn kính cũng đồng nghĩa với sự tàn phá khủng khiếp mà dân tộc phải gánh chịu. <br />Dù theo đuổi ý đồ tốt đẹp nào trong tranh đấu, Hồ Chí Minh cũng không thể được đặt vào hàng ngũ yêu nước để trở thành anh hùng dân tộc. <br />Thái độ của người dân Đức hiện nay với Hitler hay người dân Nga hiện nay với Stalin có thể là thái độ thích hợp nhất đối với mọi người Việt Nam để dành cho thần tượng Hồ Chí Minh.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159010080231043992006-09-23T21:13:00.000+10:002006-09-23T21:14:40.916+10:00CHÚ THÍCH CHƯƠNG 51(01) Tín đồ cộng sản là từ do chính đảng Cộng Sản Đông Dương dùng để gọi các đảng viên. Trong nghị quyết ngày 5-11-1945 tự giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương được Hồ Chí Minh công bố ngày 11-11-1945 có câu: “Những tín đồ của chủ nghĩa Cộng Sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư ở Đông Dương”<br />(02) Vẹm là từ ngữ xuất hiện từ chữ VM viết tắt của Việt Minh với hàm nghĩa nói dối. Tiếng Vẹm rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam từ 1945: Nói dối như Vẹm…<br />(03) Dùng thay cho tên Nguyễn Ái Quốc mang từ khi gia nhập đảng Xã Hội Pháp đầu năm 1919 và được nhắc tới nhiều từ sau tháng 6-1919.<br />(04) Bác Hồ trên đất nước Lenin – Hồng Hà, tr. 190<br />(05) Mặt Thật – Thành Tín, tr. 120-121<br />(06) Xin xem Hồ Chí Minh, tên phản quốc … – Nguyễn Phương Minh .<br />(07) Biên niên tiểu sử – Tập I, tr. 224<br />(08) Những năm tháng không thể nào quên – Võ Nguyên Giáp, tr. 13<br />(09) A Dragon Embattled – Buttinger, tr.402 viết về khung cảnh Việt Nam sau hiệp ước 6-3-1946: “...Những cuộc tuần tiễu hỗn hợp Pháp – Việt Minh được thành lập để giữ trật tự và đề phòng bạo động chống Pháp thêm nữa. Nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Những bước tiếp theo cho thấy Việt Minh đã nhìn ra rằng đây là dịp tốt để họ tiêu diệt các đảng thân Trung Hoa và người Pháp vốn coi phe quốc gia không thể thỏa hiệp còn tệ hơn phe cộng sản chịu hợp tác nên quyết định ủng hộ Việt Minh trong vấn đề này. Nhằm mục đích loại trừ kẻ thù không cộng sản, Pháp đã trở thành đồng minh tạm thời của Việt Minh.”<br />(10) Nguyên văn tiếng Pháp: “La France reconnait solennellement l’indépen-dance du Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l’Union Francaise en qualité d’État associé à la France. L’indépendance du Vietnam n’a d’autres limites que celles que lui impose son appartenance à l’Union Francaise”.<br />(11) Trong The Struggle For Indochina, Ellen J. Hammer ghi Quốc Hội Pháp phê chuẩn Thỏa Ước Élysée ngày 23-4-1949. Thực ra vào ngày trên chỉ mới có việc Hội Đồng Lãnh Thổ Nam Kỳ thông qua sáp nhập Nam Kỳ vào Việt Nam. Từ đó cho tới ngày 2-2-1950 là ngày Quốc Hội Pháp phê chuẩn bản thỏa ước, giao dịch giữa Việt Nam và Pháp chỉ dựa trên văn thư chính thức giữa các đại diện hành pháp là Auriol, Pignon và Bảo Đại.<br />(12)-(14)-(15)-(16)-(17)-(18) Mặt thật – Bùi Tín, tr. 99, 128-129 & 134, 39, 91, 99, 98-102<br />(13) Vision accomplished? – Nguyễn Khắc Huyên – tr. 260<br />(19) 21 tài liệu gồm thư của Nguyễn Sinh Huy (cha Hồ Chí Minh) gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, thư của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, công văn của Sở Mật Thám Trung Kỳ, lời khai của trưởng làng Kim Liên, lời khai của các hương chức Kim Liên, lời khai của Nguyễn Tất Đạt (anh Hồ Chí Minh), lời khai của bà Nguyễn Thị Thanh (chị Hồ Chí Minh), ghi chép của Sở Mật Thám Nam Bộ, điện của Toàn Quyền Đông Dương …<br />(20) Từ thời Minh Mệnh, bãi bỏ chức Trạng Nguyên nhưng thêm Phó Bảng là bậc cuối cùng trong 5 cấp đậu trong kỳ thi Hội theo thứ tự sau: Bảng Nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp, Đồng Tiến Sĩ Xuất Thân và Phó Bảng. <br />(21) Nguyễn Lý Tưởng, tác giả Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu (Tác giả XB, Nam Cali, 2001) cho biết, theo lời kể của ông Võ Như Nguyện, con cụ Võ Bá Hạp bạn thân và đồng môn với cụ Phan Bội Châu (tuy kém Phan 10 tuổi), ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ ông Hồ, sau khi vợ chết và bị mất chức, đã đem ba người con là Nguyễn Thị Thanh tức Kim Liên, Nguyễn Tất Đạt tức cả Khươm hay Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Côn tức Nguyễn Tất Thành vào Huế gửi ông nội của ông Nguyện là cụ Võ Văn Giáp trông coi hộ. Ông Võ Như Nguyện cũng kể rằng, khi ông bị Việt Minh bắt sau cách mạng Tháng Tám, chính ông Nguyễn Tất Đạt, tức Cả Khiêm đã tự động can thiệp với Trần Hữu Dực lúc ấy là chủ tịch Việt Minh Trung Bộ thả ông, vì nhớ ơn gia đình ông. Hiện ông Võ Như Nguyện sinh sống tại Pau, miền Nam nước Pháp. - xem SĐD trang 73- 75.<br />(22) Một đoạn thư của Hồ Chí Minh ký tên Paul Tất Thành viết ngày 15-12-1912 như sau: “J’ose même désirer vous prier de bien vouloir lui accorder un emploi comme Thừa Biện des Bộ ou Huấn Đạo, Giáo Thụ, afin qu’il puisse se gagner sa vie sous votre haute bienveillance. En espérant que votre bonté ne refuserait la demande d’un enfant qui, pour remplir son devoir, n’a l’appui que vous et en attendant votre réponse, veuillez agréer, Monsieur le Résident Supérieur, les respectueuses salutations de votre filial peuple et reconnaissant serviteur”. PAUL TẤT THÀNH, New York le 15 Décembre 1912 – Tôi cầu mong Ngài vui lòng cho cha tôi được nhận một công việc như Thừa Biện ở các Bộ hoặc là Huấn Đạo hay Giáo Thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài. Với mong mỏi lòng tốt của Ngài sẽ không từ chối lời yêu cầu của một đứa con chỉ còn biết dựa vào Ngài để làm bổn phận của mình, xin Ngài Khâm Sứ nhận những lời chào kính cẩn của người dân-con và kẻ tôi tớ chịu ơn Ngài.”<br />(23) Những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch – Trần Dân Tiên, tr. 90-91 <br />(24) Đêm giữa ban ngày – Vũ Thư Hiên, tr.251<br />(25) Vietnam, le dossier noir du Communisme – Michel Tauriac – Bản Việt ngữ, tr. 82.<br />(26) Về TUYÊN TRUYỀN có hàng trăm đề tài để nói. Chỉ xin đưa một ví dụ rất đơn giản về TIN ĐỒN. Một cán bộ được huấn luyện về tuyên truyền sẽ biết cách tạo ra tin đồn sao cho có nội dung gần với sự thật, nhưng không phải sự thật rồi chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng người để gieo cái tin đồn đó. Nó khởi sự bằng cách khoác cái áo mờ ảo “nửa thật nửa giả”. Những tin đồn loại đó sẽ tạo ra huyền thoại và nhiều huyền thoại sẽ tạo nên thần tượng. Không có huyền thoại không có thần tượng. Do đó thần tượng Hồ Chí Minh đã được tạo nên bởi phần lớn những huyền thoại do chính ông Hồ tạo nên trong tác phẩm tự kể về mình theo phương pháp “vẽ rồng không có đuôi”. Huyền thoại còn được tạo nên bằng tin đồn do cán bộ tuyên truyền và khuấy động quần chúng sáng tác, được lặp đi lặp lại qua bộ máy truyền thông do họ nắm độc quyền. Khi đã giữ độc quyền truyền thông thì dễ dàng chi phối các tin đồn và đối phương hay dân chúng không có cách gì kiểm tra hay cải chính. Chính vì thế, ngay sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh đã nắm ngay đài phát thanh và đặt mọi tờ báo dưới quyền Trần Huy Liệu bộ trưởng bộ tuyên truyền. <br />(27) Xin xem Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến cố – Nguyễn Minh Cần<br />(28)-(29) Sách Lược Xâm Lăng của Cộng Sản – Minh Võ, Saigon 1970, t. 68Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159009991625893532006-09-23T21:09:00.000+10:002006-09-23T21:13:12.893+10:00* Chương 52 * LỜI CUỐI SÁCHHết thẩy các tác giả viết về Hồ Chí Minh được đề cập trong những chương trên dù thuộc xu hướng nào đều đồng ý về hai điểm. <br /><br />– Thứ nhất, Hồ Chí Minh là một tín đồ Cộng Sản và là một tín đồ thuần thành, tin tưởng tuyệt đối ở mục tiêu xây dựng của lý tưởng Cộng Sản cũng như hiệu năng của phương pháp đấu tranh do Lenin ấn định trong các nguyên tắc chiến lược sách lược được khai triển bởi Stalin.<br /><br />Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lenin là ánh sáng chân lý, là mặt trời đưa lại nguồn vui, vì ngay từ 1923, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa Cộng Sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc nguồn gốc, sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa chỉ là vách tường dày ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”<br /><br />– Thứ hai, từ sau khi tham gia nhóm sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp cho tới cuối đời, Hồ Chí Minh luôn là cán bộ Cộng Sản Quốc Tế thuộc thành phần lãnh đạo với nhiều nhiệm vụ cụ thể tại Trung Hoa và Đông Nam Á. Liên tục nhiều năm kể từ 1924, Hồ Chí Minh được Quốc Tế Cộng Sản trả lương và tài trợ mọi phí khoản để hoàn thành các công tác do ban lãnh đạo Cục Đông Phương của Quốc Tế Cộng Sản trao phó. <br /><br />Hồ Chí Minh đã hoàn thành và hoàn thành xuất sắc mọi công tác, nhất là các nhiệm vụ trên bán đảo Đông Dương, do đó, đã nhận được lời tán tụng nồng nhiệt của lãnh tụ Liên Xô Krutschev: “Hồ Chí Minh là tông đồ nhiệt thành của tôn giáo Cộng Sản, là vị thánh của chủ nghĩa Cộng Sản, người nhiệt thành xả thân vì đại nghĩa …Các bạn phải tôn kính người này, hãy quỳ gối trước ông ấy để tỏ lòng biết ơn về những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng Sản, đã dành cho nó tất cả sức lực và khả năng của mình.”<br /><br />Ngoài hai điểm trên, nhận định về Hồ Chí Minh luôn đưa ra những hình tượng khác biệt, thậm chí hoàn toàn đối nghịch. <br />Với tác giả này, Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc vĩ đại nhất của Việt Nam thì với tác giả khác, Hồ Chí Minh là kẻ gieo rắc đại họa chưa từng có trong lịch sử dân tộc Việt Nam.<br /><br />Với tác giả này, Hồ Chí Minh là người luôn chủ trương ôn hòa, giàu lòng nhân ái nhưng bị thủ hạ lấn áp, khống chế nên phải bó tay trước các chủ trương gây ra nhiều thảm họa từ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh qua chính sách cải cách ruộng đất, đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức, đối lập tới các chiến thuật biển người tại vùng Việt Bắc, Điện Biên Phủ trước 1954 và chiếu cố miền Nam bằng binh lực, ra lệnh Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 … thì với tác giả khác hết thẩy những việc trên đều do chính Hồ Chí Minh quyết định.<br /><br />Với tác giả này, Hồ Chí Minh là người ngay thẳng, trung thực, một lòng vì dân vì nước nên được toàn dân ngưỡng mộ suy tôn là Cha Già Dân Tộc thì với tác giả khác, Hồ Chí Minh là hiện thân của xảo quyệt, tàn ác, theo đuổi tham vọng cá nhân bằng mọi giá nên bị dân chúng căm thù từng đặt ra nhiều giai thoại để rủa xả, thậm chí gọi là Cáo già, là Quỷ Vương, là Hồ ly tinh…<br /><br />Cũng thế, có tác giả cho rằng nếu không có Hồ Chí Minh, Việt Nam đã tránh được thảm họa chiến tranh và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất phát triển từ lâu, nhưng lại có tác giả phát biểu Hồ Chí Minh là người lập công đầu trong việc giành độc lập và thống nhất cho đất nước vì đã lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống âm mưu xâm lược của các đế quốc thực dân Pháp – Mỹ…<br /><br />Bỏ qua các động cơ do phe phái hoặc do mưu tính cá nhân với một dụng ý nào đó, sự khác biệt trong các nhận định xuất phát trước hết từ nhận thức về bối cảnh lịch sử Việt Nam trong thế kỷ qua.<br /><br />Với một số tác giả, mục tiêu mà mọi phong trào, mọi lực lượng đấu tranh tại Việt Nam theo đuổi là chống lại các thế lực ngoại bang để giành độc lập, thống nhất quốc gia. Quá trình đấu tranh tuy gồm nhiều giai đoạn đặc thù từ đầu thế kỷ nhưng toàn bộ cuộc đấu tranh chỉ thể hiện ý nghĩa duy nhất là tranh thủ và bảo vệ quyền sống tự do tự chủ cho dân tộc. <br />Trong quá trình đấu tranh này, lực lượng do Hồ Chí Minh lãnh đạo hoạt động hữu hiệu hơn hết và cuối cùng đã đem lại thành quả đúng với mong muốn của toàn dân.<br /><br />Với số tác giả khác, Việt Nam đã giành lại chủ quyền và thống nhất lãnh thổ sau biến cố Nhật đảo chính Pháp ngày 9.3.1945, vì ngay từ ngày 11.3.1945, Bảo Đại đã tuyên bố hủy bỏ hiệp ước 1884 và sau đó, ngày 14.8.1945 hủy bỏ tất cả các hiệp ước bất bình đẳng 1862, 1874 do triều đình Huế ký với Pháp. Ngoài ra, ngày 27.4.1945, Bảo Đại đã ký dụ số 11 cử Phan Kế Toại làm Khâm Sai Bắc Kỳ và ngày 14.8.1945 ký dụ số 108, cử Nguyễn Văn Sâm làm Khâm Sai Nam Kỳ, thu hồi lãnh thổ về một mối.<br /><br />Do Hồ Chí Minh muốn biến Việt Nam thành chư hầu của Liên Xô để mở rộng ảnh hưởng Cộng Sản tại Đông Nam Á nên năm 1945 Pháp phải can thiệp với mục đích ngăn chặn và dẫn đến sự có mặt của Mỹ sau 1954.<br /><br />Không thể phủ nhận nền tảng thực tế của hết thẩy các sự việc nêu trên, nhưng không thể nhìn toàn bộ diễn biến tình hình Việt Nam trong thế kỷ 20 chỉ qua một số sự việc được lọc lựa theo chủ quan. <br /><br />Thực ra, tình hình Việt Nam là sự đan xen hết sức phức tạp của các sự việc đã được nhắc tới trong bối cảnh quốc tế cũng không kém phần phức tạp từ sau sự hình thành khối Cộng Sản Quốc Tế, nhất là sau khi chấm dứt đệ nhị thế chiến.<br /><br />Ảnh hưởng mở rộng của Liên Xô tại Đông Âu nói riêng và trên thế giới nói chung đã hình thành rõ rệt thế lưỡng cực đối đầu quốc tế đặt dưới sự lãnh đạo của Liên Xô ở một phía và Mỹ-Anh-Pháp ở phía kia.<br /><br />Giữa bối cảnh này, sự bừng tỉnh của ý thức dân tộc tự quyết cũng trở thành động cơ thúc đẩy hình thành phong trào đấu tranh tại nhiều quốc gia trên thế giới chống lại mọi chủ trương thực dân đế quốc, đặc biệt là tại các quốc gia đang bị mất chủ quyền hoặc đang bị khống chế dưới một hình thức nào đó bởi các cường quốc Tây Phương, cụ thể là các quốc gia nhược tiểu Á Phi và Nam Mỹ trong đó bao gồm cả Việt Nam. <br /><br />Chính khối các quốc gia nhược tiểu này là mục tiêu chinh phục trước mắt của Liên Xô và vì thế trở thành mục tiêu phải bảo vệ của Mỹ-Anh-Pháp. <br /><br />Cả hai khối cực quyền đều thấy rõ tình thế đối đầu một mất một còn nhưng không nhắm thẳng vào nhau mà tiến hành tranh chấp ở mức độ hạn chế theo quan điểm chiến lược riêng tại lãnh thổ các quốc gia nhược tiểu.<br /><br />Liên Xô tuy theo đuổi mục tiêu xóa bỏ toàn bộ khối Tư Bản để thiết lập nền chuyên chính vô sản trên toàn thế giới như chủ nghĩa Cộng Sản đã ấn định, nhưng không thể rời xa nguyên tắc đấu tranh của Lenin là phải tùy giai đoạn, uốn theo những khúc quanh để đi dần lên đỉnh núi. Một khúc quanh trong chiến lược Lenin là khai thác các phần tử dân tộc yêu nước để từng bước tiêu hao sức mạnh của kẻ thù tư bản như đã được đề ra trong đại hội 5 Quốc Tế Cộng Sản vào tháng 6-1924.<br /><br />Áp dụng nguyên tắc chiến lược này, Liên Xô đã duy trì tình trạng chiến tranh thường trực, liên tục tấn công Tây Phương theo đúng chủ trương đấu tranh giai cấp, nhưng luôn ẩn mình sau chiêu bài giải phóng dân tộc vận dụng các lực lượng ngoại vi, thay vì công khai lộ diện trên trận tuyến.<br /><br />Do đó tình trạng chiến tranh giữa hai khối cực quyền sau đệ nhị thế chiến đã được gọi là chiến tranh gián chỉ hoặc chiến tranh lạnh vì không có sự đối đầu trực tiếp bằng bom đạn giữa các phe đối địch mà chỉ diễn ra thông qua các lực lượng trung gian dưới nhiều hình thức tại các quốc gia nhược tiểu.<br /><br />Mục tiêu trước mắt của Liên Xô là thúc đẩy khối nhược tiểu thù hận Tây Phương để thu hẹp phạm vi thế lực đối phương trong lúc bành trướng thế lực bản thân hầu tiến dần tới thế cô lập đối phương trước khi bước vào trận đánh cuối cùng.<br /><br />Tất nhiên phản ứng của Tây Phương là ngăn chống mưu đồ tràn lấn này. Nhưng khi ngăn chống, Tây Phương luôn phải lộ diện công khai trên trận tuyến trong lúc quần chúng ở khắp nơi, ngay cả tại nội bộ các quốc gia Tây Phương, vẫn chưa hoàn toàn nhận thức rõ về mối hiểm họa Cộng Sản thường được nêu ra như lý do chủ yếu đòi hỏi phải hành động.<br /><br />Thêm vào đó là sự tiếp tục hiện diện nhiều phần tử còn tiếc nuối chính sách thực dân trong chính giới Tây Phương bên cạnh những phần tử tiến bộ chủ trương tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc.<br /><br />Tình thế chen lấn vàng, thau và nhận thức còn nhiều nghiêng ngả về các đường lối chính trị, kể cả nhận thức về mục tiêu đích thực của Cộng Sản, đã dẫn tới những chọn lựa vội vã về thế đứng càng khiến cho thực tế trở thành phức tạp hơn. Tuy cục diện thế giới phân định rõ ràng thành hai khối cực quyền không thể cùng tồn tại do chủ trương tiêu diệt mọi ý hệ dị biệt của Cộng Sản, nhưng trên thực tế, hàng ngũ các lực lượng đấu tranh không kết thành trận tuyến rõ ràng theo phân định đó.<br /><br />Cộng Sản luôn ẩn mình trong các lực lượng dân tộc yêu nước trong khi hàng ngũ Thế Giới Tự Do luôn có sự trà trộn của những phần tử không coi trọng việc ngăn chống Cộng Sản bằng các đường lối chính trị trục lợi.<br /><br />Nói chung, thế đối đầu giữa hai khối Cộng Sản - Tự Do với danh xưng cuộc xung đột giữa hai khối Đông - Tây đã thực sự xảy ra ngay sau đệ nhị thế chiến, nhưng không hiện hình rõ rệt. Trong diễn tiến thực tế, tình trạng đối đầu chỉ là những cuộc chiến giành quyền lãnh đạo tại các quốc gia nhược tiểu được gọi là các cuộc chiến cục bộ hoặc như chính Hồ Chí Minh từng diễn tả: “Chúng ta làm cách mạng đánh đế quốc thực dân tức là đánh tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó có qui mô thế giới mà cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận”.<br /><br />Cộng Sản là một khối đồng nhất trong mọi hành động nên toàn thể các cuộc chiến cục bộ ở mọi nơi đều là những mặt trận liên kết thuộc một trận đánh mang tính quy mô thế giới dưới sự chỉ đạo của Liên Xô nhắm tấn công kẻ thù tư bản. <br />Trong khi đó, Tây Phương chỉ là một nhóm quốc gia với những chủ trương khác biệt nên nhiệm vụ ngăn chống Cộng Sản thường được coi là công việc riêng của từng quốc gia tùy theo khu vực bùng nổ các cuộc chiến cục bộ. Sự yểm trợ quốc tế gần như chỉ bó hẹp giữa vài quốc gia đồng minh và giới hạn ở một số lãnh vực nào đó theo những thỏa thuận có điều kiện. Cuộc chiến Việt Nam 1945-1954 đã diễn ra trong khung cảnh này.<br /><br />Quan niệm Đông Dương vốn là phần đất thuộc Pháp khiến người Anh chuyển giao vai trò giải giới quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16 gần như với ý nghĩa trả về cho Pháp việc ngăn chống Cộng Sản tại vùng đất này. Trong khi đó, trong chính giới Pháp vẫn hiện diện nhiều phần tử chưa thể dứt khoát từ bỏ toan tính tái lập quyền bảo hộ tại đây mặc dù đã thấy rõ bàn tay Liên Xô ở phía sau lực lượng do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ít nhất từ tháng 9-1945 tới hết năm 1947, Pháp tuy đã tự đặt cho mình nhiệm vụ ngăn chống Cộng Sản nhưng nhiệm vụ này vẫn bị chi phối bởi các âm mưu khai thác như một chiêu bài nhắm thuyết phục Mỹ hỗ trợ việc tái lập chủ quyền ở Đông Dương là điều mà Mỹ quyết liệt phản đối.<br /><br />Riêng Mỹ tuy biết chắc Hồ Chí Minh là cán bộ Quốc Tế Cộng Sản nhưng không tin tưởng hoàn toàn đường lối chính trị của Pháp nên đã chọn thế đứng trung lập sau khi cảnh giác Pháp về hiểm họa Cộng Sản có thể lan tràn khắp Đông Dương. Chính vì thế, vào những ngày mở đầu, cuộc chiến Việt Nam đã thể hiện gần như hiển nhiên ý nghĩa kháng chiến chống xâm lăng mặc dù phía người Pháp vẫn nhắc đến mục tiêu ngăn chống Cộng Sản.<br /><br />Khi những khó khăn từ nội tình chính quốc khiến hy vọng thắng trận tại Đông Dương trở nên mờ mịt, nhất là trước viễn tượng Trung Cộng thành công tại Hoa Lục, Pháp mới khởi sự tìm liên kết với lực lượng dân tộc yêu nước Việt Nam.<br /><br />Nhưng sự đổi thay này không dễ xóa nhòa ấn tượng dân tộc kháng chiến trong những ngày đầu của cuộc chiến. Vì thế ngộ nhận tiếp tục kéo dài với cả dư luận quốc tế lẫn quần chúng quốc nội, nhất là Cộng Sản dù nắm trọn quyền lãnh đạo vẫn luôn giấu kín hình tích, trong khi không thể phủ nhận sự hiện diện nhiều phần tử dân tộc yêu nước nơi hàng ngũ kháng chiến.<br /><br />Song song với thực tế này là những khó khăn tất yếu tồn tại trong quá trình thực hiện liên kết giữa Pháp và lực lượng dân tộc yêu nước Việt Nam ở trận tuyến bên kia. <br /><br />Hình ảnh các quan thuộc địa kéo dài từ ngót một thế kỷ không thể tan biến ngay, trong khi sự đối đầu giữa một đội quân viễn chinh với một lực lượng bản xứ luôn tạo ấn tượng về sự hiện diện giữa phe xâm lược ở phía này và phe yêu nước ở phía khác. Thành ra, dù Việt Nam thực sự trở thành cuộc chiến cục bộ trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản - Tự Do ngay từ 1948, nhưng tính chất này tiếp tục bị vùi lấp. <br /><br />Vai trò chủ động của lực lượng dân tộc yêu nước Việt Nam bên cạnh người Pháp trong trận tuyến ngăn chống Cộng Sản không được nhận ra, thậm chí còn bị xuyên tạc là một thứ bù nhìn cho thực dân. <br /><br />Sau 1954, khi đất nước bị chia đôi và cuộc chiến đã chuyển sang một giai đoạn khác, lối nhìn này tiếp tục tồn tại với nhiều người bất chấp mọi thực tế lịch sử để đặt ngay người Mỹ vào vị thế cũ của người Pháp. <br /><br />Nhưng thực tế phức tạp chỉ là một phần nguyên do dẫn đến cái nhìn thiếu chính xác về tính chất cuộc chiến Việt Nam, nhất là cuộc chiến sau 1954. <br /><br />Nguyên do chủ yếu dẫn tới tình trạng ngộ nhận thuộc về trận tuyến tuyên truyền mà Cộng Sản liên tục nắm quyền chủ động. <br />Với quan niệm chiến tranh liên tục, trường kỳ và toàn diện, Cộng Sản không giới hạn sự đối đầu với kẻ địch trong một phương diện nào mà luôn tạo thế hỗ tương giữa nhiều trận tuyến, trong đó tuyên truyền là trận tuyến được đặc biệt chú trọng. <br />Trước hết, trận tuyến tuyên truyền không cần bom đạn vẫn đem lại thành quả lớn gấp bội lần so với những trận đánh sử dụng bom đạn. <br /><br />Trong quan niệm đấu tranh Cộng Sản, tuyên truyền vận dụng mọi khả năng nên tiến hành dễ dàng ở mọi nơi, mọi lúc và gần như luôn tạo ra sức mạnh quyết định kết quả của mọi trận đánh. Tuyên truyền vừa tiêu hao lực lượng kẻ địch vừa biến đổi, chi phối kẻ địch theo ý đồ sai sử, vì tác dụng chủ yếu của tuyên truyền là thuyết phục, dẫn dắt tâm lý, tư tưởng đối tượng để xoay chuyển về một định hướng trù liệu.<br /><br />Suốt hai giai đoạn chiến tranh Việt Nam từ 1945 tới 1975, trận tuyến tuyên truyền Cộng Sản không ngừng nỗ lực xoay chuyển tâm lý, tư tưởng mọi đối tượng theo hướng kết buộc các cường quốc Tây Phương, cụ thể là Pháp rồi Mỹ, đã nối nhau theo đuổi tham vọng thực dân đế quốc. <br /><br />Mục tiêu của nỗ lực này không chỉ nhằm thuyết phục riêng quần chúng Việt Nam tham gia lực lượng do Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo mà nhằm gieo rắc thái độ bất bình, thù hận Tây Phương ở khắp nơi trên thế giới trong khuôn khổ cuộc chiến ý thức hệ toàn cầu do Cộng Sản Quốc Tế phát động.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159007367649502312006-09-23T20:28:00.000+10:002006-09-23T20:29:29.610+10:00* Chương 51 * LỜI CUỐI SÁCHĐạt tới cái nhìn về tính chất cuộc chiến Việt Nam theo định hướng này là một mục tiêu chiến lược trong tiến trình đấu tranh giai cấp để thực hiện liên minh mở rộng lực lượng chống tư bản trên khắp thế giới. Tất nhiên, tầm vóc này của mục tiêu khiến trận tuyến tuyên truyền về cuộc chiến Việt Nam đã có sự tham gia tích cực của toàn thể các quốc gia Cộng Sản cùng mọi tổ chức ngoại vi chịu sự chi phối của Cộng Sản ở mọi nơi . <br /><br />Từng ngày, từng giờ, người dân khắp thế giới không ngừng được nghe, được đọc, được nhắc nhở những tin tức, những sự việc do các bộ máy tuyên truyền Cộng Sản chọn lọc, tô chuốt và cuối cùng khó tránh khỏi dấy lên các ấn tượng thuận lợi cho Cộng Sản, thậm chí trở thành những công cụ tự nguyện. Đây là trường hợp của những nhà báo như Wilfred Burchett của Úc, Madeleine Riffaud của Pháp, Don Luce của Mỹ hoặc những nhân vật nổi danh như Jane Fonda, Cora Weiss, Diane Johnstone … và ngay cả đức Giáo Hoàng cũng bị cuốn vào vòng khai thác để chinh phục dư luận trong thời gian diễn ra cuộc hòa đàm về Việt Nam tại Paris. <br /><br />Biến không thành có, đổi một thành mười, chuyển mười thành trăm, ngàn… vốn là nghệ thuật siêu đẳng trong tuyên truyền Cộng Sản sau quá trình thực hành kéo dài gần trọn thế kỷ.<br />Có thể nói không sợ lầm lẫn rằng sự bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ 20 đã dựa phần lớn vào thành quả của trận tuyến tuyên truyền, một trận tuyến gần như luôn bỏ ngỏ với khối các quốc gia tự do. <br /><br />Do đó, cái nhìn thiếu chính xác của nhiều người về tính chất cuộc chiến Việt Nam không phải là điều đáng ngạc nhiên. <br /><br />Kể từ khi mở đầu cuộc chiến năm 1945, trận tuyến tuyên truyền gần như sân khấu độc diễn của Cộng Sản. <br /><br />Trong tác phẩm Vietnam, le dossier noir du Communisme, Michel Tauriac đã nhắc lại hai tấm hình và vụ một đơn vị Mỹ sát hại 500 người dân ấp Mỹ Lai khiến dư luận khắp thế giới không những vùi lấp chính nghĩa của những người Việt Nam yêu nước mà còn thù hận những người này đồng thời cũng khinh ghét quân đội Mỹ. <br /><br />Tauriac viết: “Hai hình ảnh đã làm mất đi chính nghĩa của Sài Gòn trên toàn thế giới. Một tấm cho thấy tướng Loan, chỉ huy trưởng Cảnh Sát miền Nam ngay trước các nhiếp ảnh viên đã bắn hạ ngoài đường phố bằng một phát súng lục một kẻ chỉ vài phút trước đó đã giết người hàng loạt… Và tấm khác, chụp cô bé gái 9 tuổi chạy ngoài đường, hoàn toàn lõa lồ, sau lưng là các tia nổ tung của bom napalm nháng lửa… Hai tấm hình khủng khiếp dán vào trán nước Mỹ như hai vết phỏng… Nước Mỹ đã bị hỏng cả mặt.” <br />Trước nỗi bất bình cực điểm của dư luận thế giới về hai tấm hình cùng sự việc được nêu, Tauriac nhớ lại nhiều hình ảnh và sự việc khác: “Không xa Mỹ Lai bao nhiêu là một ngôi làng nhỏ Quảng Ngãi, có hai bệnh viện… Trong đêm Tết 1968, quân Cộng Sản xông vào một bệnh viện. Y tá, bác sĩ, bệnh nhân nằm trên giường đều bị giết chết, súng cứ nhả đạn thả dàn. Khi những người Cộng Sản ra đi, thần chết đã mang theo hết mọi người…” <br />Và tấm hình thành phố Huế sau ngày 24 tháng Hai 1968 khi quân đội Cộng Sản bị đánh bật khỏi đây: “Khi rút lui về rừng, nhóm tấn công mang theo nhiều gia đình để làm bia đỡ đạn. Các tù nhân này không sống sót trên đời được lâu. Một số bị bắn, bị bóp cổ, bị đâm bằng dao… Một số khác phải tự đào lấy mồ trước khi bị chôn sống, bị trói dính thành xâu từng khoảng mười đến mười lăm người … Khoảng năm mươi hố chôn tập thể được khám phá trong thành phố và các vùng lân cận. Ba ngàn thi hài làm nghẹt các hào rãnh của thành phố đổ nát.” <br /><br />Một hình ảnh khác không xa Huế là đoạn đường phía Nam thị xã Quảng Trị. “Năm 1972, mười mấy ngàn xác chết nằm ngổn ngang trên đó, xác của những người dân sống trong vùng đất trận mạc này, khi quân đội Bắc Việt tấn công, đã bỏ trốn do nhìn thấy số phận mà người dân Huế được Cộng Sản dành cho vào bốn năm trước. Trên suốt mười cây số, chỉ là những đống thịt đầy máu me trộn lẫn với những hành trang rải rác…” <br /><br />Một sự việc cũng chìm vào im lặng dù không thể phai nhòa trong ký ức kinh hoàng của nhiều người Pháp từng sống tại Sài Gòn: “Ngày 25.9.1945, Trần Văn Giàu đã tự tay và thúc giục đồng bọn tàn sát 450 phụ nữ cùng trẻ em Pháp và lai Âu tại phố Heyraud giữa trung tâm Sài Gòn… Vợ và con người Việt của các người Pháp cũng không được tha. Khắp nơi hàng ngàn vụ tàn sát diễn ra… Khắp nơi các hố chôn tập thể được khám phá…” <br />Tauriac tự hỏi tại sao cho tới nay, báo chí tả khuynh Pháp không thốt lên tiếng kêu khiếp hãi nào về tất cả những sự việc đó mà chỉ nói tới vụ Mỹ Lai và hai tấm hình kia? <br /><br />Làm sao báo chí tả khuynh có thể làm khác, khi trận tuyến tuyên truyền Cộng Sản đã định hướng là phải biến phe địch thành những tập đoàn tội ác, những kẻ thù của nhân loại và tô điểm bức chân dung bản thân bằng những màu sắc thiết tha vì dân vì nước!<br /><br />Điểm quan trọng hơn sự im lặng của báo chí tả khuynh là chính báo chí không tả khuynh đã bị lôi cuốn, kích động và trở thành những trợ thủ đắc lực cho Cộng Sản trên trận tuyến tuyên truyền. <br /><br />Do đó, tội ác thực sự khủng khiếp đã bị vùi lấp trong khi những hình ảnh bình thường trong chiến tranh được biến thành tội ác và phóng đại thành những tội ác chưa từng có trong lịch sử. Đây cũng là phương thức áp dụng để diễn tả thực chất cuộc chiến Việt Nam theo định hướng tuyên truyền Cộng Sản. <br /><br />Trong tuyên truyền Cộng Sản, cuộc chiến Việt Nam được vận dụng như một nguồn chứng cớ tố giác tình trạng phạm tội của toàn bộ phe tự do, đồng thời xác định chính nghĩa vì dân vì nước của phe Cộng Sản. <br />Thành quả mà trận tuyến tuyên truyền Cộng Sản đạt được là thực tế của một giai đoạn lịch sử đã bị lật ngược để đổi đen thành trắng, ít nhất cũng với một số khá đông người trên thế giới.<br /><br />Nói cách khác, ngoài tính vàng thau lẫn lộn của một thực trạng phức tạp, hình ảnh cuộc chiến Việt Nam đối với khá đông người trên thế giới chỉ là sản phẩm của tuyên truyền. Trên căn bản này, bức chân dung Hồ Chí Minh với tư cách nhân vật tiêu biểu cho chính nghĩa của phe Cộng Sản trong chiến cuộc Việt Nam cũng không thể mang tính cách nào ngoài tính cách sản phẩm của tuyên truyền. <br /><br />Điều này chính là lời giải đáp cho câu hỏi do đâu nhân vật Hồ Chí Minh đã được lưu ý ở nhiều nơi trên thế giới và do đâu chính Hồ Chí Minh đã phải đích thân ngồi viết một cuốn sách tự phong cho mình danh vị Cha Già Dân Tộc Việt Nam. <br /><br />Hồ Chí Minh được nhắc tới ở nhiều nơi vì cuộc chiến Việt Nam sau 1945 chính là điểm nóng trong cuộc chiến ý thức hệ đang diễn ra. <br /><br />Đối với khối Tây Phương, cuộc chiến Việt Nam là mũi dùi tấn công trực diện vào chế độ thực dân vẫn được Cộng Sản gán chung cho mọi quốc gia Tây Phương. <br /><br />Đối với các quốc gia nhược tiểu, cuộc chiến Việt Nam là yếu tố thúc đẩy sự nổi dậy chống lại ảnh hưởng Tây Phương đồng thời là sức hút sự hướng về chủ nghĩa Cộng Sản. <br /><br />Hồ Chí Minh với tư cách tiêu biểu cho cuộc chiến Việt Nam đã trở thành công cụ trong cuộc đấu tranh giai cấp chống chủ nghĩa tư bản của toàn khối Cộng Sản. Cho nên nhắc nhở theo hướng đề cao Hồ Chí Minh trở thành việc làm cần thiết của toàn khối Cộng Sản cho mục tiêu bành trướng ảnh hưởng để thúc đẩy sự bùng nổ thêm các cuộc chiến cục bộ mới. <br /><br />Hơn ai hết, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tầm mức quan trọng trong việc định hướng cho cách nhìn của dư luận về cuộc chiến Việt Nam và về bản thân mình thuộc trận tuyến tuyên truyền Cộng Sản. Được thụ huấn về chủ thuyết Cộng Sản và các phương pháp đấu tranh tại Mạc Tư Khoa nên Hồ Chí Minh không coi nhẹ trận tuyến tuyên truyền. <br /><br />Trên thực tế, khi còn hoạt động bí mật, Hồ Chí Minh đã được chỉ thị phải nỗ lực thành lập một trường tuyên truyền tại Thái Lan và những thành tựu bước đầu của Hồ Chí Minh tại Hoa Nam cuối năm 1924 hoàn toàn nhờ hoạt động tuyên truyền. <br /><br />Với Hồ Chí Minh, tuyên truyền không chỉ là phương thế phát triển ảnh hưởng mà còn là hoạt động gắn liền với hơi thở của lực lượng đấu tranh nên công tác tuyên truyền luôn được đặc biệt lưu ý. <br /><br />Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh đã đặt tên cho đơn vị võ trang đầu tiên của Mặt Trận Việt Minh là “đội vũ trang tuyên truyền” để nhắc nhở đồng chí về công tác trọng tâm luôn là công tác tuyên truyền. <br /><br />Sau đó, trong chính phủ đầu tiên thành lập cuối tháng 8-1945, Hồ Chí Minh đã đặt Bộ Tuyên Truyền trên cả Bộ Quốc Phòng. Đánh giá tuyên truyền ở tầm mức đó nên việc Hồ Chí Minh ngay cuối năm 1947 đã ngồi viết sách tô vẽ cho bản thân mình là điều dễ hiểu. <br /><br />Thời điểm trên là thời điểm mà Mặt Trận Việt Minh đối diện với những khó khăn chồng chất, mặc dù đã thành công trong việc triệt hạ các lực lượng đối lập để nắm trọn quyền lãnh đạo.<br /><br />Trước hết, Việt Minh chưa thể bám rễ sâu trong quần chúng vì các phần tử quốc gia yêu nước vẫn duy trì ảnh hưởng ở nhiều nơi và đang có những vận động kết hợp thành một trận tuyến chống lại Cộng Sản. <br /><br />Dấu hiệu nguy hiểm là người Pháp bắt đầu tìm thế chuyển hướng cho sự hiện diện tại Đông Dương qua vai trò đồng minh liên kết với các lực lượng quốc gia Việt Nam. <br /><br />Dấu hiệu không kém nguy hiểm khác là Hồ Chí Minh không còn giấu kín nổi hình tích Cộng Sản như thời kỳ hoạt động bí mật trong khi sự nghi ngại trong quần chúng về Cộng Sản vẫn là một thực tế. <br /><br />Dù đã tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản, Hồ Chí Minh vẫn chưa thu phục trọn vẹn lòng tin của nhiều người đấu tranh yêu nước và phía Pháp đã tuyên bố không chấp nhận thương lượng với Việt Minh do Hồ Chí Minh là cán bộ Cộng Sản Quốc Tế chịu sự chi phối của Liên Xô. <br /><br />Nói gọn lại, tính chất Cộng Sản của Hồ Chí Minh đang đe dọa chiêu bài dân tộc yêu nước của Việt Minh đồng thời đẩy Cộng Sản Việt Nam vào cảnh có thể bị chống đối từ quốc nội tới quốc tế. <br /><br />Tạo ra hình ảnh một Hồ Chí Minh tuy từng có tương quan với Cộng Sản nhưng một lòng vì dân vì nước, được toàn thể dân chúng kính yêu chính là một nỗ lực trên trận tuyến tuyên truyền để giải tỏa các áp lực chống đối. <br /><br />Vì thế, cái tên Hồ Chí Minh chỉ mới xuất hiện lần đầu trước công chúng vỏn vẹn 24 tháng trước và còn là mối nghi ngại đối với nhiều người vẫn được chính Hồ Chí Minh diễn tả như một cái tên thân thiết với hết thẩy mọi tầng lớp quần chúng và gán cho quần chúng sự sùng kính tột cùng đối với mình qua những dòng chữ trơ tráo: “Không có gì so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh... Nhiều nhà báo và người ngoại quốc rất ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh... Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng yêu nước, yêu nhân dân ... Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người... Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân... Mọi người kính mến Hồ chủ tịch, nhất là thanh niên và nhi đồng. Ở ngoài mặt trận khi xung phong các chiến sĩ hô lớn: Vì tổ quốc, vì Bác Hồ tiến lên! Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng suất. Đối với nhi đồng tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn... Nhân dân gọi chủ tịch là Cha Già của dân tộc, vì Hồ chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ Quốc Việt Nam”. <br /><br />Kiều Phong bảo Hồ Chí Minh lố bịch rẻ tiền, Vũ Thư Hiên coi đây là chuyện ngớ ngẩn trong khi Bùi Tín cho rằng Hồ Chí Minh đã diễn một tấn trò nực cười…<br /><br />Những phê phán theo hướng này đã bỏ qua khung cảnh thực tế căng thẳng của Mặt Trận Việt Minh lúc đó và không xét việc làm của Hồ Chí Minh trong tính cách một nỗ lực đấu tranh trên trận tuyến tuyên truyền. <br /><br />Vào lúc ngồi nặn óc viết ra những điều giả dối trơ trẽn trên, Hồ Chí Minh không bị thúc đẩy chỉ bởi riêng lòng ham muốn sùng bái cá nhân mà đang chiến đấu cho sự tồn tại trên chính trường của bản thân và phe phái. Cho nên cuốn sách được viết giữa không khí sôi động khốc liệt của chiến trường và vừa viết xong đã gửi cấp tốc qua Ngưỡng Quang để dịch sang ngoại ngữ phổ biến đi khắp nơi. <br /><br />Chính cuốn sách giả dối trơ trẽn này đã đóng góp lớn lao vào trận tuyến tuyên truyền về cuộc chiến Việt Nam do khối Cộng Sản mở ra trên khắp thế giới những ngày sau đó. Những huyền thoại mà Hồ Chí Minh tạo ra cho mình như con người nhân từ, một lòng hy sinh vì nước, được toàn dân yêu mến tôn xưng là Cha Già Dân Tộc… gần như được lập lại ở hầu hết các tác phẩm nói về cuộc chiến Việt Nam theo định hướng kết buộc Pháp - Mỹ đã theo đuổi ý đồ xâm lược và lực lượng dân tộc yêu nước Việt Nam chỉ là một nhóm bù nhìn cho ngoại bang. <br /><br />Dư luận này đã khiến dấy lên những làn sóng chống đối ở nhiều nơi ngăn trở nỗ lực chiến đấu của phía thế giới tự do và lực lượng yêu nước Việt Nam trong khi hỗ trợ tối đa cho hành động của Cộng Sản. <br /><br />Tới nay, khối Cộng Sản chỉ còn là một dấu tích của thế kỷ 20, nhưng tiếng nói chính xác của thực tế lịch sử Việt Nam cũng như chân dung thực sự của Hồ Chí Minh vẫn chưa thoát cảnh bị vùi lấp dưới ảnh hưởng của trận tuyến tuyên truyền Cộng Sản.<br /><br />Vẫn còn không ít người diễn tả Hồ Chí Minh như một nhà cách mạng ái quốc của Việt Nam, một người có công đầu giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang dù trên thực tế, hết thẩy đều đồng ý rằng Hồ Chí Minh là tín đồ thuần thành của chủ nghĩa Cộng Sản và trong lý thuyết Cộng Sản không có điểm nào dung nạp tinh thần dân tộc. <br /><br />Những người không thể chối bỏ thực tế hiển nhiên của thảm trạng đời sống Việt Nam suốt già nửa thế kỷ qua thì biện giải rằng mọi việc đều nằm ngoài ý định của Hồ Chí Minh. <br />Những cách diễn tả hoặc biện giải này đều đã có lời đáp từ nhiều phía được ghi lại rải rác trong các chương sách trước nên xin được bỏ qua. <br /><br />Ý nghĩ của chúng tôi chỉ trở lại với một điều từng được trình bày trong cuốn sách viết trước đây là nếu không đặt Hồ Chí Minh cùng cuộc chiến mà ông chủ trương và lãnh đạo trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu do Cộng Sản chủ trương thì chẳng khác những nhà khoa học trước và đương thời với Copernic và Gallilée, cứ nhất định bảo mặt trời xoay quanh trái đất. Mọi người đã rõ số phận của Gallilée lúc ấy nhưng ngày nay chỉ người điên mới nói mặt trời xoay quanh trái đất. Không sớm ắt muộn, thực tế sẽ dõng dạc cất lên tiếng nói chính xác không gì có thể rời đổi nổi. <br /><br />Chúng tôi không dám đem mình sánh với Gallilée để diễn tấn tuồng đom đóm sánh với mặt trời mà chỉ hy vọng những trang sách đã được viết sẽ gợi nhắc phần nào hướng nhìn gần gũi nhất về con người thực của nhân vật Hồ Chí Minh để từ đó có thể khơi lên những tia sáng sẽ làm tỏ lộ dần tính chất thực của những biến cố lịch sử nhuốm đầy tóc tang và đau đớn mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu suốt già nửa thế kỷ qua. <br /><br />Hy vọng này không chỉ do thúc đẩy của khát khao phát hiện những thực trạng từng bị vùi lấp và còn đang bị vùi lấp mà chủ yếu khởi phát từ mong mỏi những tiếng nói hàm chứa trong thực trạng của giai đọan vừa qua sẽ mở ra một lối thoát thực sự cho tương lai đất nước để không bao giờ còn lâm cảnh tốn hao xương máu nhiều thế hệ cho thành quả cuối cùng là dấn bước vào một ngõ cụt tối tăm. <br /><br />Xin được ghi lại như dấu chấm cuối cùng về bức chân dung Hồ Chí Minh, lời trối trước khi giã từ cuộc sống của một người đã dành trọn đời tham gia hàng ngũ đấu tranh do Hồ Chí Minh lãnh đạo: “Đất nước mình bất hạnh cùng cực vì đã có một lãnh tụ là ông Hồ! ”.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159006519260339342006-09-23T20:13:00.000+10:002006-09-23T20:15:19.653+10:00PHỤ LỤC16– NHỮNG BÀ VỢ và NGƯỜI TÌNH<br />của Hồ Chí Minh<br /> <br />– Cô Bourdon và cô Brière ở Pháp <br />– Một cô người Nga <br />– Tăng Tuyết Minh, <br /> y tá Trung Hoa theo đạo Ki Tô<br />– Nguyễn Thị Minh Khai, <br /> vợ của Lê Hồng Phong, tổng bí thư đảng<br />– Đỗ Thị Lạc<br />– Nông Thị Xuân vv..<br /> <br /> <br />17– MỘT SỐ NIÊN HIỆU LIÊN QUAN<br />đến cuộc đời của Hồ Chí Minh<br /> <br />– 19-05-1890: Ra đời với tên Nguyễn Sinh Cung sau đổi là Nguyễn <br /> Tất Thành. (Theo tư liệu chính thức của CSVN)<br />– 05-06-1911: Nguyễn Tất Thành xuống tầu Latouche-Tréville làm <br /> phụ bếp để xuất dương (lấy tên Ba).<br />– 15-09-1911: Paul Tất Thành nộp đơn xin học trường Thuộc Địa.<br />– 10-10-1911: Cách mạng Tân Hợi thành công tại Trung Quốc<br />– 1915: Nguyễn Tất Thành đến Mỹ, rồi sang Anh<br />– 1917: Định cư tại Pháp<br />– Th. 3-1919: Lênin lập Quốc Tế 3 tức QTCS (Komintern) <br />– 1919: Nguyễn Ái Quốc đưa thỉnh nguyện thư 8 điểm cho <br /> hội nghị Versailles về Hòa Bình (Nguyễn Ái Quốc <br /> lúc ấy là tên chung của nhóm yêu nước VN tại Pháp)<br />– 1920: Dự hội nghị Tours của đảng Xã Hội Pháp. Bỏ phiếu<br /> tán thành QT 3, trở thành đảng viên sáng lập đảng<br /> CS Pháp.<br />– 1921: Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập<br />– 1922: Thành lập Liên Xô (Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội <br /> Chủ Nghĩa Xô Viết) <br />– 1923: Nguyễn Ái Quốc (HCM) rời Pháp đi Nga, qua ngả <br /> Đức. Tham dự đại hội Quốc Tế Nông Dân (tháng 3).<br />– 1924: Hiến Pháp đầu tiên của Liên Xô<br />– 1924: NAQ tham dự đại hội kỳ 5 QT3 (từ 17-6 đến 8-7).<br />– 1924: NAQ được cử vào Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế, <br /> được thành lập liền sau đại hội V của QTCS.<br />– 11-11-1924: NAQ đến Quảng Châu, Hoa Nam làm phụ tá kiêm<br />thông dịch cho Borodin, trưởng đoàn trong phái bộ của LX bên cạnh chính phủ TH của Tôn Dật Tiên. <br /> <br />– Th.6-1925: Thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng<br /> Chí Hội từ Tâm Tâm Xã (không cộng sản). Hội này<br /> là hạt nhân của đảng CS Việt Nam 4 năm sau.<br />– 1927: Cùng Borodin chạy trốn khỏi Trung Quốc, về Nga,<br /> sau khi sự hợp tác Quốc Cộng Trung Hoa tan vỡ.<br />– 1928: Tới Thái Lan qua ngả Pháp, Ý, Tân Gia Ba. Nhiệm <br /> vụ: Tổ chức các chi bộ cộng sản đầu tiên ở Xiêm, <br /> Mã Lai, Nam Dương, Miến Điện.<br />– 27-10-1929: Thư của QTCS chỉ thị hợp nhất 3 đảng CS ở ĐD <br />– 03-02-1930: NAQ thay mặt QT3 thống nhất 3 đảng CS, và được<br /> coi là sáng lập viên ĐCSVN (ít tháng sau đổi thành<br /> Đảng CS ĐD theo chỉ thị của QT 3).<br /> <br />– 01-05-1930: Mở đầu phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Bắt đầu biểu<br /> tình bạo động trên khắp nước.<br />– Th.10-1930: Ban hành luận cương chính trị của đảng do Trần Phú<br /> soạn thảo, sau khi ở Liên Xô về nước. Trần Phú<br /> được bầu Tổng Bí Thư đầu tiên của đảng<br /> <br />– 19-04-1931: Trần Phú, Tổng Bí Thư CSVN đầu tiên bị bắt.<br />– 06-06-1931: NAQ bị Cảnh sát Anh bắt tại Hồng Kông. QT3 vận<br /> động, nhờ luật sư Loseby can thiệp, giúp Quốc ra<br /> khỏi tù. <br />– 1933: Sống ở Nga hơn 4 năm, học trường QT 3 năm. <br />– 1935 (27 đến 31-03): Đại Hội I của CSVN tại Macao.<br />– 1935 (25-7 đến 20-8): Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội 7, QT3<br /> với tư cách đại biểu tư vấn. Lê Hồng Phong tham dự<br /> với tư cách đại biểu chính thức của ĐCSVN.<br />– 01-09-1939: Thế chiến II bùng nổ.<br />– Th.11-1939: Hội nghị Trung Ương đảng CS ĐD kỳ 6<br />– Th.11-1940: Hội nghị Trung Ương đảng CSĐD kỳ 7<br /> <br />– 1941: Cướp danh nghĩa VM của ông Hồ Học Lãm (tức <br /> Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội thành lập năm<br /> 1935), gạt người quốc gia phi Cộng Sản ra. <br /> <br />– 19.05.1941: thành lập mặt trận Việt Minh ở Pac Bo (phỏng theo<br /> tổ chức Việt Minh của Hồ Học Lãm: bỏ chữ hội ở <br /> cuối và thêm 2 chữ mặt trận vào đầu)<br />– 1942: lấy tên Hồ Chí Minh. <br />– 28.08.1942: Bị chính quyền THDQ bắt giam ở Quảng Tây<br />– 1944: Nhờ sự can thiệp của Nghiêm Kế Tổ, HCM được thả<br /> cùng với Nguyễn Tường Tam, nhận lời với tướng<br /> Trương Phát Khuê cung cấp tin tình báo về quân<br /> Nhật tại Đông Dương.<br />– 19-12-1944: Thành lập đội vũ trang tuyên truyền giải phóng quân<br /> giao cho Võ Nguyên Giáp chỉ huy.<br />– 09-03-1945: Nhật đảo chính Pháp tai Động Dương.<br />– 11-03-1945: Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập. <br />– 06-08-1945: LX tuyên chiến với Nhật vào giờ chót.<br />– 15-08-1945: Nhật đầu hàng.<br />– 16-08-1945: Đại Hội Quốc Dân tại Tân Trào, thành lập ủy ban<br /> giải phóng quốc gia, HCM được bầu làm chủ tịch.<br /> <br />– 17-08-1945: Việt Minh giật micro, cướp diễn đàn trưng biểu ngữ<br />và cờ VM, biến cuộc mít tinh của hội công chức ủng hộ nội các Trần Trọng Kim thành mít tinh ủng hộ Việt Minh.<br />– 19-08-1945: VM cướp chính quyền tại Hà Nội (Cách Mạng Th.8)<br />– 02-09-1945: Tuyên ngôn Độc Lập.<br />– 11-11-1945: Hồ giải tán đảng CSVN. <br />– 06-01-1946: Bầu cử quốc hội đầu tiên. Hồ tặng các đảng đối lập<br /> 70 trong số 360 ghế.<br />– 17-01-1946: Hồ cho lệnh thống nhất các lực lượng vũ trang.<br />– 28-02-1946: Thỏa ước Pháp-Hoa. Pháp trả TH một số nhượng địa<br /> đổi lại Trung Hoa để quân Pháp vào Bắc Việt thay<br /> thế quân TH.<br />– 02-03-1946: Quốc hội họp khẩn cấp một ngày trước dự định, lập<br /> chính phủ liên hiệp trong một giờ (theo Bernard Fall<br /> thì trong nửa giờ)<br />– 06-03-1946: Ký với Sainteny hiệp ướcsơ bộ (Convention Prélimi-<br /> naire) 6/3, bên cạnh có chữ ký của Vũ Hồng Khanh.<br /> <br />– 17-04-1946: Hội nghị Đà Lạt. Trưởng đoàn: Nguyễn Tường Tam.<br />– 01-08-1946: Hội nghị Đà Lạt ngưng họp vĩnh viễn.<br />– 27-05-1946: Thành lập Mặt trận Liên Việt với mục đích quy tụ<br />mọi xu hướng đảng phái còn ở ngoài VM. Ai không vào coi như Việt gian, chống lại đường lối cứu nước của VM. Thực ra Liên Việt chỉ là cái vỏ. Cái cốt lõi vẫn là VM, và cốt lõi của VM vẫn là đảng cộng sản, dù đã giả vờ giải tán.<br />– 30-05-1946: Cao ủy d’Argenlieu nhân danh chính phủ Pháp nhìn<br />nhận Cộng Hòa Nam Kỳ tự trị. Nguyễn Văn Thinh thủ tướng, Nguyển Văn Xuân bộ trưởng Quốc Phòng<br /> <br />– Th.07-1946: Hồ Chí Minh đi Pháp dự hội nghị Fontainebleau. <br />– 06-07-1946: Khai mạc hội nghị Fontainebleau.<br />– 14-09-1946: Ký tạm ước Modus Vivendi với Marius Moutet, Bộ<br />trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại tại phòng ngủ của Moutet lúc nửa đêm. (Thủ tướng Pháp lúc ấy là George Bidault)<br />– 09-11-1946: Ban hành hiến pháp đầu tiên của Việt Nam DCCH<br /> <br />– Th.11-1946: Quốc hội tuyên bố chính thức công nhận Mặt Trận <br /> Liên Việt (trung ương gồm 12 đảng viên Lao Động, <br /> 6 Việt Minh và 9 các thành phần khác).<br />– 19-12-1946: Tuyên bố toàn quốc kháng chiến<br />– 21-01-1947: Paul Ramadier thay Léon Blum (cùng đảng Xã hội)<br /> làm thủ tướng Pháp.<br />– Th. 09.1947: Stalin cho thành lập Cominform.(Phòng TTCS) <br />– Th. 06-1948: Ti Tô bị khai trừ khỏi Cominform.<br />– 1948: Tuyên Bố Vịnh Hạ Long, Pháp đồng ý cho VN (dưới <br /> quyền quốc trưởng Bảo Đại) được tự trị trong LHP.<br />– 08-03-1949: Hiệp ước Élysée tổng thống Pháp Vincent Auriol ký <br /> với Bảo Đại nhìn nhận Việt Nam độc lập trong LHP.<br />– 01-10-1949: Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CS) ra đời.<br />–1950: CHND Trung Quốc rồi LX thừa nhận VNDCCH.<br /> <br /> <br />– 02-02-1950: Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Ước Élysée<br />– 21-01-1950: Hội nghị Trung Ương họp tại Tân Trào, Tuyên<br />Quang, bàn kế hoạch phản công Pháp ở vùng Việt Bắc với viện trợ của Bắc Kinh.<br />– 11 đến 19-2-1951: Họp đại hội Đảng kỳ 2 tại Chiêm Hóa, Tuyên<br />Quang, quyết định cho tái sinh đảng cộng sản dưới cái tên “đảng Lao Động Việt Nam”<br />– 03-03-1951: Ra mắt đảng Lao Động VN.<br />– 05-03-1953: Stalin chết.<br />– 1953: Bắt đầu kế hoạch Giảm Tô và CCRĐ đợt I.<br /> <br />– Th.04-1954: Khai mạc hội nghị Geneve về Triều Tiên và ĐD<br />– 07-07-1954: Nhờ Trung Cộng quân viện và đặc biệt cử 2 tướng<br />Trần Canh, Vi Quốc Thanh sang đích thân chỉ huy, quân Bắc Việt thắng trận Điện Biên Phủ.<br />– Th. 07-1954: Hội nghị kỳ 6 TƯ quyết định điều đình với Pháp<br />– 08-07-1954: Hội nghị Genève bắt đầu bàn về đình chiến ở VN.<br />– 20-07-1954: Ký hiệp định Genève chia đôi Việt Nam.<br />– 24-11-1955: Bắc Việt ra lệnh thiết lập chế độ hợp tác xã mua bán<br /> ở nông thôn và HTX tiêu thụ ở thành thị.<br />– 1956: Cải Cách Ruộng Đất đợt 2 với các tòa án nhân dân<br /> và đấu tố “long trời lở đất”<br />– Th.02-1956: Giai Phẩm (mùa Xuân) ra mắt ở Hà Nội.<br />– 14 đến 25-02-1956: Đại Hội 20 của đảng CSLX. Khrutshchev hạ<br /> bệ Stalin.<br />– 1956: Giải tán Cominform<br />– 26-10-1956: (Đệ nhất) Cộng Hòa Việt Nam ra đời tại miền Nam.<br />– 1959: Mao Trạch Đông bắt đầu kế hoạch “Đại nhảy vọt” .<br />– 13-05-1959: Hội nghị trung ương đảng ra nghị quyết “củng cố<br /> miền Bắc, chiếu cố miền Nam”<br />– 01-01-1960: Ban hành Hiến Pháp thứ 2, gọi là Hiến Pháp 1959.<br />– 05 đến 10-09-1960: Đại hội 3 đảng Lao Động. (tiếp tục củng cố<br /> miền Bắc, chiếu cố miền Nam)<br />– 1960: Đặt Lê Duẩn làm Bí Thư Thứ Nhất. Tham dự đại hội 81 đảng CS thế giới. <br />– 20-12-1960: Cho lập Mặt trận DTGP Miền Nam (20-12-1960)<br />– 17-10-1961: Đại hội XXII Liên Xô khai mạc, quyết định đưa thi<br /> hài Stalin ra khỏi công trường đỏ. <br />– 01-01-1962: Thành lập Đảng Nhân Dân Cách Mạng (chi nhánh<br /> đảng CS Việt Nam) tại miền Nam. <br />– 01-11-1963: Đảo chính lật đổ đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam. <br /> Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết ngày hôm sau.<br />– Th.12-1963: Trung ương đảng CS Việt Nam ra Nghị quyết 9 (bí <br /> mật) chủ trương tiến đánh miền Nam.<br />– 08-08-1967: Nghị định số 121/CP của Bắc Việt thay đổi âm lịch,<br /> đẩy nhanh lên một ngày.<br />– 10-11-1967: HCM ban hành luật chống gián điệp, phá hoại, phản<br />cách mạng ... nhằm mục đích bắt giam những phần tử nghi là trong nhóm xét lại chống đảng.<br />– 04-02-1968 (mồng 2 Tết Mậu Thân): “Tổng công kích, tổng nổi <br />dậy”, vi phạm thỏa hiệp hưu chiến 2 ngày Tết . Thảm sát tại Huế.<br />– 10-05-1968: Hội nghị bốn bên tại Paris khai mạc.<br />– 1968 : Lại cho lệnh tổng nổi dậy, tổng công kích vào ngày<br /> sinh thứ 78, 19.05.1968.<br />– 25-01-1969: Hội nghị (bốn bên) Paris khai mạc phiên họp chính<br /> thức đầu tiên.<br />– 02-09-1969: HCM qua đời, để lại di chúc nói đi gặp Mác Lê.<br />– 27-01-1973: Ký Hiệp định đình chiến Paris.<br />– 30-04-1975: VC vi phạm hiệp định Ba Lê tiến chiếm miền Nam.<br />– 02-07-1976: Đổi tên nước thành CHXHCN VIỆT NAM (thay cho<br /> ba thực thể VNDCCH + VNCH + CHLTMNVN)<br />– 17-02-1979 : Quân Trung Cộng tiến đánh biên giới Việt Bắc.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159006367229488352006-09-23T20:09:00.000+10:002006-09-23T20:12:47.620+10:00THƠ MỤC<strong>A - TÁC GIẢ VIỆT NAM</strong> <br /><br />BẢO ĐẠI <br />* Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc, Cali 1990. <br /> Nguyên tác “Le Dragon D’Annam”, Ed. Plon, Paris 1980<br />BÙI NGỌC TẤN <br />- Chuyện kể năm 2000, Tuổi Xanh, Cali 2000 <br /> (bị Hà Nội tịch thu)<br />BÙI TÍN<br />- Hoa xuyên tuyết, Nhân Quyền, Paris 1991<br />- Mây mù thế kỷ, Đa Nguyên Paris 1998<br />- 1945- 1999 Vietnam, la face cachée du régime, <br /> Éditions Kergour, Paris 1999 (traduction de l’original <br /> Following HCM, the memoir of a North Vietnamese <br /> Colonel, publié à Londre en 1995 par Hurst & Company)<br />BÙI XUÂN QUANG<br />- HCM, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nam Á Paris 1990<br />- Những điều trông thấy trong cuộc đời HCM, -nt-<br />CAO THẾ DUNG<br />- Ba mươi năm máu lửa. Alfa, Falls Church, VA. 1991<br />- Làm thế nào để giết một tổng thống? <br /> Hòa Bình, Sài Gòn 1970.<br />- Chân tướng HCM và Cộng Sản VN, Hưng Việt, USA 1988<br />- Việt Nam huyết lệ sử, Đồng Hướng, USA 1996<br />CHÍNH ĐẠO <br />- Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại, <br /> Văn Hóa, USA 1991<br /> CƯỜNG ĐỂ<br />- Cuộc đời cách mạng, <br /> Hồi ký, Sài Gòn 1968 <br />DƯƠNG THU HƯƠNG <br />- Những thiên đường mù, Hà Nội 1990 <br />DƯƠNG TRUNG QUỐC<br />-Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945 <br /> Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001<br />ĐẶNG HÒA<br />- Bác Hồ, những năm tháng ở nước ngoài <br /> Trung Tâm UNESCO & Bảo tồn và phát triển <br /> văn hóa dân tộcViệt Nam, Hà Nội 2001<br />ĐỖ MẠNH TRI <br />- Di sản Mác xít tại Việt Nam, <br /> Tự Do, Nam Cali 2002<br />HOÀNG HỮU QUÝNH <br />- Tôi bỏ đảng, Paris 1989<br />HOÀNG NGỌC THÀNH<br />- Những ngày cuối cùng của TT Ngô Đình Diệm, <br /> Cali 1994.<br />- Why The Vietnam War? President Ngô Đình Diệm and <br /> the US. His overthrow and assassination. <br /> Đại Nam Publishers, Cali 2001. <br />HOÀNG QUỐC KỲ <br />- Ma đầu Hồ Chí Minh, Mặt Trận Quốc Dân, Cali. 1995.<br />HOÀNG VĂN CHÍ <br />- From Colonialism to Communism, <br /> Frederick A Praeger, New York 1964<br />- Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc,<br /> Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, Sài Gòn 1959.<br />HOÀNG VĂN HOAN<br />- Giọt nước trong biển cả, <br /> Nhóm tìm hiểu lịch sử, 1991<br />HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH<br />- Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam,<br /> Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội 1999<br />HỒ CHÍ MINH <br />- Toàn tập, <br /> Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996<br />HỒ SĨ KHUÊ<br />- Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và mặt trận Giải Phóng, <br /> Văn Nghệ, Cali 1992.<br />HỒNG HÀ<br />- Bác Hồ trên đất nước Lênin, <br /> Thanh Niên, Hà Nội 2000.<br />HUY PHONG và YẾN ANH<br />- Exploring The Hồ Myth – Thằng Mõ, USA 1989<br />KIỀU PHONG<br />- Chân Dung Bác Hồ – Bất Khuất, USA 1989.<br />LÂM THÀNH LIÊM<br />- Chính sách cải cách ruộng đất của HCM, <br /> sai lầm hay tội ác? <br /> Nam Á, Paris 1990<br />LÊ TÙNG MINH<br />- Vụ án thế kỷ đ- tròng vào cổ đảng CSVN, <br /> Tạp Chí Cách Mạng, số 31, tháng 12-2002<br />LỮ GIANG<br />- Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam, <br /> Tác giả xb, USA 1998. <br />MINH VÕ<br />- Sách lược xâm lăng của cộng sản, <br /> Tác giả xb, Saigon 1963–1970<br />- Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư, <br /> Thông Vũ, Nam Cali 1999. <br />- Tâm Sự Nước Non, Ai Giết HCM? <br /> Tiếng Quê Hương, Virginia 2002<br />NGHIÊM XUÂN HỒNG<br />- Lịch trình diễn tiến phong trào quốc gia Việt Nam <br /> Ngày Về, Denver 1985<br />NGUYỄN CHÍ THIỆN<br />- Hoa Địa Ngục, <br /> tức Bản chúc thư của một người Việt Nam <br /> Văn Nghệ Tiền Phong, tháng 10-1980.<br />NGUYỄN KHẮC HUYÊN<br />- Vision Accomplished? The Enigma of HCM, <br /> Macmillan, New York 1971.<br />NGUYỄN LÝ TƯỞNG<br />- Thuyền ai đợi bến Văn Lâu, <br /> Tác giả xb Hoa Kỳ 2001.<br />NGUYỄN MINH CẦN<br />-Đảng CSVN, qua những biến động <br /> trong phong trào CS Quốc Tế, <br /> Tuổi Xanh, 2001<br />NGUYỄN NGỌC HUY<br />-Vị trí Hồ Chí Minh trong diễn tiến <br /> của tình trạng nhân quyền tại VN, <br /> Nam Á, Paris 1990.<br />NGUYỄN PHƯƠNG MINH<br />- Hồ Chí Minh, tên phản quốc số một của thời đại. <br /> Chưa xuất bản.<br />NGUYỄN QUANG NGỌC<br />- Tiến trình lịch sử Việt Nam, <br /> Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001<br />NGUYỄN THẾ ANH<br />- Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh, <br /> Nam Á, Paris 1989<br />NGUYỄN THỊ BÌNH <br />- MTDTGP - CPLT tại hội nghị Paris về VN, <br /> Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2001<br />NGUYỄN THUYÊN<br />- Bộ mặt thật của Hồ Chí Minh, <br /> Tiếng Chuông, Australia 1990.<br />NGUYỄN VĂN CANH <br />- Vietnam under Communism, 1975- 1982, <br /> Hoover Institution, Stanford, University, USA 2002.<br />NGUYỄN VĂN TRẤN<br />- Viết gửi mẹ và quốc hội <br /> (bị Hà Nội tịch thu, 1995).<br />NHƯỢNG TỐNG<br />- Hoa cành Nam <br /> Khai Trí, Sài Gòn tái bản 1973 <br />PHẠM MINH<br />- Việt Nam đất nước tôi, <br /> Tổ chức Hưng Việt, Australia 2001<br />PHẠM VĂN SƠN<br />- Việt Sử Tân Biên – Đại Nam, Sài Gòn 1972<br />PHAN BỘI CHÂU<br />- Phan Bội Châu Niên Biểu, <br /> Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử, Sài Gòn 1972<br />- Phan Bội Châu Toàn Tập, <br /> Nxb Thuận Hóa, Huế 1990<br />PHÙNG THẾ TÀI<br />- Bác Hồ, những kỷ niệm không quên, <br /> Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 2002 <br />SƠN TÙNG<br />- Tham luận về vai trò l-nh đạo của HCM, <br /> Bài đọc tại trường quản lý cán bộ, Hà Nội ngày 11-4-2001.<br />T. LAN<br />- Vừa đi đường vừa kể chuyện – Nxb Trẻ, Sài Gòn 1999<br />TÔN THẤT THIỆN<br />- Cái đúng và cái giả dối về chuyện Hồ Chí Minh, <br /> Nam Á, Paris 1989<br />TRẦN DÂN TIÊN<br />- Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch. <br /> Văn Học, Hà Nội 2001<br />TRẦN ĐÌNH HUỲNH<br />- Danh Nhân Hồ Chí Minh, <br /> Nxb Văn Học, Hà Nội 2001<br />TRẦN GIA PHỤNG<br />- Án tích cộng sản Việt Nam, <br /> Non Nước, Toronto, Canada 2001.<br />TRẦN VĂN GIÀU<br />- Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam – Tập III: Thành<br /> công của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh. <br /> Nxb TP. HCM, Sài Gòn 1993.<br />TRƯƠNG NHƯ TẢNG<br />- A Viet Cong Memoir. <br /> Harcourt Brace Jovanovich, San Diego 1985<br />VĂN TIẾN DŨNG<br />- Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước<br />- Đi theo con đường của Bác, <br /> Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 1993. <br />VIỆT THƯỜNG<br />- Sự Tích Con Yêu Râu Xanh ở VN, <br /> Quật Khởi, 2002<br />- Chuyện thâm cung dươí triều đại HCM, <br /> Hưng Việt, USA 2000<br />VÕ NGUYÊN GIÁP<br />- Những năm tháng không thể nào quên, <br /> Nxb QĐND Hà Nội in lần đầu 1970, lần thứ 5 năm 2001.<br />VŨ THƯ HIÊN<br />- Đêm Giữa Ban Ngày, Văn Nghệ, <br /> Nam Cali 1997.<br />- B - TÁC GIẢ NGOẠI QUỐC<br />ANDRÉE VIOLLIS<br />- Indochine S.O.S <br /> Gallimard, Paris 1955<br />BERNARD F. FALL<br />- Le Viet Minh, la république démocratique <br /> du Việt Nam 1945-1960, <br /> Sciences Politiques, Librairie Armand Colin, Paris 1960.<br />- The two Vietnams <br /> Frederick A. Praeger, USA 1967<br />- Ho Chi Minh on Revolution <br /> Frederick A. Praeger, USA 1967<br />BONNAFANT, L. <br />- Trente ans de Tonkin <br /> Ed. Figuière, Paris 1924<br />DANIEL ELLSBERG<br />- Secret <br /> Viking Penguin, New York 2002<br />DAVID HALBERSTAM<br />- HO <br /> McGraw-Hill Inc. New York 1971<br />DENNIS J. DUNCANSON<br />- Government and revolution in Vietnam. <br /> Oxford University Press, New York & London 1968<br />DENIS WARNER<br />- The Last Confucian <br /> The Macmillan, New York 1963 <br />DOUGLAS PIKE<br />- Viet Cong <br /> MIT (Ma. Inst. of Tec.) MA 1966.<br />- History of VN Communism, 1925- 1976, <br /> Hoover Institution Press, 1978<br />EDUARD BERNSTEIN<br />- Cromwell & Communism..., <br /> Schocken Books, New York 1963<br />ELLEN HAMMER<br />- A Death In November: America in Vietnam, 1963. <br /> E.P. Dutton, 1987.<br />- The Emergence of Vietnam, <br /> Institute of foreign relations, New York 1947<br />- The Struggle for Indochina <br /> Stanford Un. 1954.<br />HENRY KISSINGER<br />- Years of renewal <br /> Simon & Schuster, New York 1999.<br />JEAN FRANCOIS RÉVEL<br />- Hồ Chí Minh, Lòng yêu nước bị chuyển hướng. <br /> Nam Á, Paris 1989.<br />JEAN LACOUTURE<br />- Ho Chi Minh, A political Biography, <br /> (English version by Peter Wiles) Random House, NY 1968 <br />JEAN SAINTENY <br />- Face à Hô Chí Minh, Éditions Seghers, Paris 1970<br />- Ho Chi Minh and his Vietnam, a personal memoir, <br /> (English version), Cowles Book Co. Inc., Chicago 1972<br />- Histoire d’une paix manquée: Indochine 1945- 1947, <br /> Fayard, Paris 1967.<br />JOSEPH BUTTINGER <br />- Vietnam, A Dragon Embattled, Political history of VN <br /> 1967 <br />- Vietnam, the unforgettable tragedy, <br /> Horizon Press New York 1977<br />JOSEPH STALIN<br />- Les principes du Léninisme<br /> Selected writings, Greenwood Press, Westport, CT 1970 <br />KARL MARX<br />- The Portable Karl Marx,Viking Press, New York 1983<br />KARL MARX & FREDERICK ENGELS<br />- The Communist Manifesto, <br /> International Publishers, 1948. <br />KARL VON CLAUSEWITZ<br />- On War, Modern Library, Random House, New York 1943<br />LOUIS ROUBAUD <br />- Vietnam, la tragédie Indochinoise, <br /> Valois, Paris 1931<br />LUCIEN BRODARD<br />- The Quicksand War, Prelude to VN, <br /> (English version by Patrick O’Brian), New York 1963<br />MARILYN B. YOUNG<br />- The Vietnam wars: 1945-1990, <br /> Harper Collins, 1991.<br />MICHEL TAURIAC<br />- Le dossier noir du Communisme, de 1945 à nos jours, <br /> Plon, Paris 2001 <br />MIECZYSLAW MANELI<br />- War of the vanquished. <br /> (Bản dịch Anh ngữ của Maria De Gorgey). Harper & Row 1971<br />MILOVAN DJILAS<br />- The New Class <br /> Praeger, New York 1957. <br />- Tito <br /> Harcourt Brace, New York 1980. <br />NEIL SHEEHAN<br />- A Bright Shining Lie, Random, New York 1988<br />- After the war was over, <br /> Random House, New York 1997<br />NIKITA KHRUTSHCHEV<br />- Khrutshchev Remembers, <br /> Volume I, 1970; vol. III – Little Brown and Company Inc.1990.<br />NORA BELOFF<br />- Tito’s flawed legacy, <br /> Westview Press, Bocelder Colorado 1985 .<br />OLIVIER TODD<br />- Cruel Avril, 1975 La chute de Saigon. <br /> France Loisirs, Paris 1987<br />- Huyền Thoại Hồ Chí Minh, <br /> Nam Á, Paris 1990<br />PIERRE BROCHEUX<br />- Ho Chi Minh <br /> Presses de Sciences Po, Paris 2000 <br />PHILLIP B. DAVIDSON<br />- Vietnam at war <br /> Presidio Press, Novato, Cali1988.<br />PHILIPPE DEVILLERS <br />and JEAN LACOUTURE<br />- End of A War <br /> (English Version from La Fin D’une Guerre <br /> by Alexander Lieven & Adam Roberts), <br /> Frederick A. Praeger Inc, New York 1970.<br />RALPH SMITH<br />- Thập Niên Cuối của cuộc đời Hồ Chí Minh, <br /> Nam Á, Paris 1990<br />RICHARD H. CROSSMAN<br />- The God That Failed, <br /> Harper & Row, New York 1963, 1965.<br />RICHARD M. NIXON<br />- No more Vietnam – Harbor House, New York 1985.<br />ROBERT SHAPLEN<br />- The Lost Revolution <br /> Harper & Row, New York 1965<br />- The road from war <br /> Harper & Row, New York 1970<br />ROBERT STRAUSZ-HUPÉ<br />- Protracted Conflict<br /> Harper & Brothers, New York 1959<br />ROBERT TEMPLER<br />- Shadows and Wind, A view of modern Vietnam, <br /> Pinguin books. New York 1999. <br />SOPHIE QUINN-JUDGE<br />- Ho Chi Minh, the missing years, 1919-1941, <br /> Uni. of Cali. Berkeley, Los Angeles 2002.<br />STANLEY KARNOW<br />- Vietnam, a history <br /> Pinguin group, New York 1991<br />STÉPHANE COURTOIS et 5 AUTRES AUTEURS <br />- Le livre noir du communisme:<br /> Crimes, Terreur, Répression <br /> (English Version by Jonathan Murphy & Mark Kramer, <br /> Harvard 2000), Robert Laffon, Paris 1997. <br />STEPHEN R. GRAUBARD<br />- A mind’s Profile, <br /> W.W. Norton and Company Inc. New York 1974<br />TƯỞNG VĨNH KÍNH<br />- Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Đài Bắc, 1972 <br /> (Bản Việt ngữ của Thượng Huyền, xb tại Hoa kỳ 1999.) <br />VLADIMIR DEDIJER<br />- Biography of Tito, <br /> Simon & Schuster, New York 1953.<br />VLADIMIR IL’ICH LENIN<br />- Colected works, <br /> Foreign Language Pub. House, Moscow 1960<br />WILLIAM J. DUIKER<br />- Ho Chi Minh, a life. <br /> Hiperion, New York 2000.Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-34894287.post-1159004992787331962006-09-23T19:25:00.001+10:002006-09-23T19:49:52.800+10:00Lời Nói Đầu<strong>Lời Nói Đầu </strong> <br /><br />Từng nghe nói trong mỗi con người luôn tiềm ẩn một thiên thần và một ác quỷ. <br />Nhưng con người không phải là thần cũng chẳng phải là quỷ. Lý tưởng mà con người theo đuổi, thành quả mà con người đạt được cùng với hành vi biểu hiện cuộc sống của con người sẽ cho phép nhận diện con người nghiêng về phía thần hay về phía quỷ. <br />Điều này càng đúng khi áp dụng với những người đấu tranh chính trị. Mục tiêu mà họ theo đuổi, phương thức dành quyền lực mà họ thi thố, quyền lực mà họ vận dụng, ảnh hưởng vai trò của họ tác động vào sinh hoạt xã hội nói chung ... chính là nền tảng cụ thể nhất để đánh giá họ nghiêng về phía nào. <br /><br />Hồ Chí Minh là người tham gia đấu tranh chính trị và là một nhân vật lịch sử Việt Nam. Thời kỳ đấu tranh của Hồ Chí Minh cũng là thời kỳ lịch sử Việt Nam gắn liền với nhiều biến cố trọng đại của thế giới trong thế kỷ 20. Vì thế, Hồ Chí Minh còn được coi là một nhân vật lịch sử của thế giới trong thế kỷ vừa qua.<br /><br />Nhưng, có những nhân vật lịch sử thường xuyên hiện ra giữa ánh sáng chói chang thì cũng có những nhân vật lịch sử luôn lẩn khuất sau nhiều lớp sa mù. Có những nhân vật lịch sử hoàn toàn trở thành dấu tích dĩ vãng ngay sau khi từ giã cõi đời thì cũng có những nhân vật lịch sử tiếp tục tác động vào mọi sinh hoạt của nhiều thế hệ tiếp nối. <br />Hồ Chí Minh không nằm trong số nhân vật lịch sử mau chóng trở thành dĩ vãng. Ông trút hơi thở cuối cùng từ ngày 2 tháng 9 năm 1969, nhưng gần như vẫn có mặt trong từng biến cố của Việt Nam sau ngày đó. Hồ Chí Minh cũng không nằm trong số nhân vật lịch sử mà toàn bộ cuộc sống và con người là những trang sách luôn mở rộng cho bất kỳ ai muốn tìm đọc. Cuộc sống và con người Hồ Chí Minh lẩn khuất sau nhiều lớp màn che với những màu sắc trái ngược để luôn là một bí ẩn giữa những huyền thoại.<br />Chính vì thế, Hồ Chí Minh trở thành đối tượng được diễn tả theo nhiều cách khác biệt, thậm chí trái ngược như ngày với đêm, như trắng với đen.<br /><br />Nhiều nhà văn, nhà báo, nhà viết sử trên thế giới đã coi Hồ Chí Minh là một chính trị gia tài ba, một người nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa hơn là tinh thần quốc tế chủ nghĩa dù Hồ Chí Minh là người cộng sản. Một số tác giả còn đi xa hơn không ngần ngại gọi Hồ Chí Minh là nhà ái quốc của Việt Nam. Đa số các tác giả này đều nghĩ rằng Hồ Chí Minh đã được toàn thể hoặc ít nhất là phần lớn dân chúng Việt Nam tôn kính và tin tưởng. Nhiều tác giả đã nhắc tiếng “Bác” mà người dân Việt Nam dùng gọi Hồ Chí Minh, nhắc chuyện Hồ Chí Minh được sùng bái như một vị thần, được dân chúng ở vài nơi lập miếu thờ và coi đó như bằng chứng xác minh nhận định của họ là trong trái tim người dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có vị thế của một “lãnh tụ vĩ đại”, một “anh hùng cứu quốc”, một “cha già dân tộc”...<br /><br />Đồng thời, không thiếu những người cầm bút khác lại nhìn Hồ Chí Minh như kẻ đại phản quốc đối với dân tộc Việt Nam. Dưới mắt những tác giả này, Hồ Chí Minh đã say mê lý tưởng cộng sản tới mức sẵn sàng đưa đất nước và đồng bào vào những thảm cảnh đau đớn cùng tột để cố giành thắng lợi cho Khối Đệ Tam Quốc Tế trong cuộc đối đầu với các quốc gia Tây Phương. Không những thế, Hồ Chí Minh còn là con người tàn ác xảo trá, trọn đời là một chuỗi dài thủ đoạn hiểm độc. Chứng cớ viện dẫn cho nhận định này là hành vi sát hại các nhà ái quốc vào thời gian trước và sau 1945 để nắm độc quyền lãnh đạo, hành vi bịp bợm tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản năm 1945, hành vi dối gạt dư luận tự tô vẽ một bề ngoài thánh thiện trong khi sống nhầy nhụa như một kẻ vô luân, hành vi tắm máu nửa triệu người vô tội với chính sách cải cách ruộng đất thời khoảng 1953-1955, hành vi cưỡng chiếm miền Nam bằng võ lực gây nên cuộc chiến đẫm máu suốt 20 năm, và trên hết là sự đẩy lui đất nước vào cảnh sống đọa đày trong ngu dốt, đói nghèo và ngục tù áp chế cho tới ngày nay... Tất nhiên, theo những tác giả này, hình tượng Hồ Chí Minh trong trái tim người dân Việt Nam chỉ có thể diễn tả bằng những từ thóa mạ đã xuất hiện ngay từ 1945-46 như “cáo Hồ”, “quỷ vương”, “ma đầu”... Bằng chứng cao hơn hết cho sự khiếp hãi và lòng thù hận của người dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh là sự kiện hàng triệu người bỏ trốn khỏi miền Bắc năm 1954 và ít nhất hơn hai triệu người đã bất chấp mọi nỗi hiểm nghèo, kể cả sóng gió đại dương, bỏ quê hương vượt biển ra đi sau ngày 30.4.1975.<br /><br />Tóm lại, ý kiến nhận định về Hồ Chí Minh rải rác trong hàng trăm tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam và về tiểu sử Hồ Chí Minh được chia làm hai loại rõ rệt, hoàn toàn trái ngược. Một bên coi ông như thần tượng, một bên coi ông là "tên phản quốc số một của thời đại". <br /><br />Sự kiện này không chỉ xảy ra với riêng Hồ Chí Minh và có thể dễ dàng gạt qua nếu Hồ Chí Minh không thuộc hàng ngũ đấu tranh chính trị, tức cuộc sống và hành vi của ông không gắn liền với các biến cố chung trong một giai đoạn lịch sử. Ở trường hợp này, dù ông là thiên thần hay ác quỉ thì ảnh hưởng lớn nhất vẫn không vượt khỏi giới hạn thúc đẩy sự ngưỡng mộ hay khinh ghét đối với riêng một cá nhân biệt lập. Sự ngưỡng mộ hay khinh ghét dành cho một nghệ sĩ chẳng hạn không trở thành mối bận tâm của xã hội, vì đó là biểu hiện quyền tự do và không hề dẫn tới những nhận định sai lạc về các biến cố chung đã diễn ra. <br /><br />Sự kiện này vẫn có thể gạt qua dù Hồ Chí Minh thuộc hàng ngũ đấu tranh chính trị nhưng nằm trong số những nhân vật lịch sử đã hoàn toàn trở thành dĩ vãng. Những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng, Neron... những lãnh tụ tàn ác như Hitler, Staline... ngay giờ phút này vẫn có thể còn được một số người ngưỡng mộ và tiếp tục là đề tài ca ngợi của một số người cầm bút nào đó trên thế giới. Nhưng việc bày tỏ sự ngưỡng mộ những nhân vật này và sự xuất hiện các tác phẩm ca ngợi họ không thể khiến đổi ngược thực chất mọi biến cố mà họ từng tham dự. Đồng thời, dù được chiếu sáng bằng ánh hào quang nào thì họ cũng không thể vượt khỏi vai trò dấu tích của một thời đã khuất để tác động nổi vào tiến trình sinh hoạt chung của xã hội hiện nay.<br />Hồ Chí Minh nằm ngoài cả hai trường hợp trên.<br /><br />Với tư cách chính trị gia, con người và hoạt động của Hồ Chí Minh gắn kết với hàng loạt biến cố có tầm mức xoay chuyển hẳn chiều hướng sinh hoạt xã hội Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua. Không thể bác bỏ dấu ấn Hồ Chí Minh trên thực tế Việt Nam kể từ đầu thập niên 1940 hay nói một cách khác, lịch sử Việt Nam từ thời điểm trên không thể tách khỏi con người và hành động của Hồ Chí Minh. <br /><br />Nhu cầu đánh giá chính xác các biến cố đương nhiên bao gồm nhu cầu đánh giá chính xác về con người và hành động của Hồ Chí Minh. Tác động hỗ tương giữa người và việc ở đây rất rõ ràng. Điều này đã lý giải sự trạng có một số đông người cầm bút trên thế giới viết về Hồ Chí Minh. Con người và tên tuổi Hồ Chí Minh chưa hẳn đủ tầm vóc khiến nổi số người trên chọn đề tài Hồ Chí Minh, nhưng mức tác động vào đời sống thế giới của vấn đề Việt Nam từ nửa thế kỷ qua đòi hỏi phải được tìm hiểu thấu đáo và trong tiến trình đánh giá các biến cố tại Việt Nam, các tác giả không thể không đánh giá về nhân vật Hồ Chí Minh. <br /><br />Tiến trình đánh giá các biến cố tại Việt Nam chưa dừng lại vì nhiều ẩn số vẫn chưa tìm được giải đáp dứt khoát. Chứng cớ cụ thể là đang hiện diện song song hai lối nhìn trái ngược về Hồ Chí Minh. <br /><br />Cần xác định ngay rằng sự hiện diện hai lối nhìn trái ngược về riêng một con người không phải động cơ chủ yếu thúc đẩy việc tiếp tục nhận dạng Hồ Chí Minh. Nhận dạng Hồ Chí Minh hoàn toàn không cần thiết nếu nằm ngoài ý nghĩa là một đoạn đường trên con đường nhận dạng một thời kỳ lịch sử. Vấn đề được đặt ra, và bắt buộc phải đặt ra, chính là yêu cầu thẩm định chính xác về mọi biến cố tại Việt Nam, trong đó không thể bỏ qua sự thẩm định chính xác về nhân vật Hồ Chí Minh.<br /><br />Yêu cầu trên càng khẩn thiết do tính nối dài liên tục của những biến cố khởi đầu từ thập niên 1940. Cho tới nay, thực tế và tương lai Việt Nam không chỉ in hằn dấu vết những biến cố đã qua mà tiếp tục bị nhào nặn, bị khuôn nén bởi chính những biến cố đó. Nếu hình dung Việt Nam như một con thuyền thì con thuyền Việt Nam chưa ra khỏi cảnh ngộ quay cuồng giữa cơn lũ dấy lên từ hơn nửa thế kỷ qua. Điều kiện tất yếu cho nỗ lực định hướng vượt qua sóng gió để thuận mái xuôi dòng chính là sự đáp ứng đòi hỏi nhận thức chính xác về cơn lũ. <br /><br />Ngoài ra, sự hiện diện của Hồ Chí Minh trong các biến cố đang tiếp diễn tại Việt Nam là điều không thể phủ nhận. Tính tới nay, Hồ Chí Minh đã qua đời tròn 34 năm, nhưng dưới chế độ hiện nay trong nước, từng ngày từng giờ tên Hồ Chí Minh vẫn được nhắc nhở như ánh sáng soi đường cho mọi công việc và khuôn mẫu sống cho mọi lứa tuổi, từ trẻ đến già. Hồ Chí Minh không chỉ là dấu ấn trên thực tế của một thời kỳ mà tiếp tục là động cơ chi phối thực tế xã hội Việt Nam. Vì thế, việc nhận dạng Hồ Chí Minh còn vượt xa thêm khỏi ý nghĩa một đoạn đường nhận dạng các biến cố lịch sử. <br />Phải nhận dạng Hồ Chí Minh, nếu muốn đánh giá chính xác các biến cố đã và đang diễn ra trên đất nước Việt Nam. Và, càng phải nhận dạng Hồ Chí Minh, nếu muốn đánh giá chính xác hướng tương lai của đời sống Việt Nam dưới ảnh hưởng trùm lấp mọi phương diện sinh hoạt xã hội của ông. <br /><br />Đây là hai động cơ chủ yếu thúc đẩy sự hình thành nội dung cuốn sách này – nhận dạng một con người đã và đang tiếp tục chi phối đời sống Việt Nam để góp phần nhận dạng một giai đoạn lịch sử, đồng thời góp phần đánh giá chính xác chiều hướng diễn biến của thực tế xã hội Việt Nam hiện nay. <br /> <br />*<br />Qua nhận định của những tác phẩm mà chúng tôi được đọc, nhân vật Hồ Chí Minh đã được quan sát từ nhiều góc độ và được khắc họa bằng nhiều màu sắc. Chân dung nhân vật Hồ Chí Minh không chỉ là một hình tượng mà bao gồm toàn bộ khía cạnh sống của con người từ tâm tưởng, ý chí, lời lẽ, hành vi, tương quan, sự nghiệp ... thậm chí gồm cả những nét diễn tả theo huyền thoại và theo cảm xúc riêng của một số người viết. <br />Tất nhiên, các góc độ quan sát khác biệt đã đưa đến những bức chân dung khác biệt và không thể có sự tương hợp hoàn toàn giữa các bức chân dung. Nhưng mức độ khác biệt dù mở lớn tới cùng cực vẫn chỉ đặt vào mọi bức chân dung hai màu sắc chủ yếu để có thể phân thành hai loại tương phản như đã nhắc ở trên.<br /><br />Lý do nào khiến xuất hiện hai loại chân dung Hồ Chí Minh tương phản như thế? <br />Bằng cách nghĩ bình thường, người ta dễ dàng cho rằng sự kiện trên chỉ do thế đứng đối nghịch của các tác giả trong tình trạng phân tranh từng diễn ra tại Việt Nam. Ngay từ tháng 8-1945, chính trường Việt Nam đã có sự đối đầu giữa những người chọn chủ nghĩa Cộng Sản làm lý tưởng và những người tham gia đấu tranh với tinh thần quốc gia yêu nước. Cuộc phân tranh kéo dài đã tác động vào hướng suy tư của nhiều người cầm bút trên thế giới và dần dần hình thành thái độ hỗ trợ phía này hoặc phía khác. <br />Các tác giả thuộc phe Cộng Sản hoặc nghiêng về phe này dĩ nhiên phải ca tụng Hồ Chí Minh, phải tìm thấy ở nhân vật này mọi đức tính của một con người cao cả, một bậc anh hùng. Ngược lại, các tác giả thuộc phe đối kháng không thể nhìn nhận Hồ Chí Minh là người yêu nước vì vai trò cán bộ Quốc Tế Cộng Sản của ông ta và không ngần ngại đổ hết mọi sự tàn ác gian trá lên đầu kẻ tiêu biểu cho phe đã đánh bại mình. <br />Sự thực có giản dị như vậy không? <br /><br />Đành rằng không thể phủ nhận thái độ hận thù do phe phái, nhưng không thể vì thế mà dễ dàng đẩy hết người trên khắp thế giới vào phe này hay phe kia để tùy tiện đánh giá mọi nhận định đã được phát biểu. <br /><br />Trong thực tế, bên cạnh những người cộng sản Việt Nam vốn là thủ hạ của Hồ Chí Minh cầm bút ca ngợi lãnh tụ vẫn có nhiều người cầm bút trên thế giới không hề đứng chung trận tuyến với họ có cái nhìn về Hồ Chí Minh phần nào tương hợp với họ. Đồng thời, bên cạnh những người Việt Nam thù hận Cộng Sản sẵn sàng thóa mạ Hồ Chí Minh cũng có không ít người cầm bút trên thế giới chưa từng chọn thế đứng chống đối Cộng Sản đã khắc họa Hồ Chí Minh như một tai họa đối với dân tộc Việt Nam. <br /> <br />Hơn nữa, trong số những tác phẩm xóa bỏ các huyền thoại tô vẽ cho Hồ Chí Minh và coi ông ta như một kẻ xảo quyệt, tham tàn lại có những tác phẩm mà tác giả chính là người cộng sản Việt Nam. Cũng không thể quên rằng nhiều tài liệu được các tác giả dùng làm cơ sở cho nhận định chính là tài liệu được lưu trữ hoặc công bố bởi các cơ quan hay giới chức từ Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. <br /><br />Thái độ thù hận phe phái dù là một thực tế nhưng không đủ để lý giải sự nhận định trái ngược đang có về Hồ Chí Minh. <br /><br />Theo thiển kiến, nhận định trái ngược này xuất phát từ quan niệm khác nhau về lý tưởng và tiếp theo là quan niệm khác nhau về lý tưởng mà Hồ Chí Minh theo đuổi. <br />Sự đánh giá cao lý tưởng cộng sản với mục đích đấu tranh giai cấp trên toàn thế giới hay đánh giá cao lý tưởng quốc gia với mục đích đấu tranh giải phóng dân tộc là nền tảng thứ nhất hình thành cái nhìn khác biệt về Hồ Chí Minh. Nền tảng thứ hai hình thành cái nhìn khác biệt là sự xác định về lý tưởng của bản thân Hồ Chí Minh. Dù Hồ Chí Minh là cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế với những nhiệm vụ rõ rệt được trao phó từ Liên Xô nhưng vẫn có người cho rằng Hồ Chí Minh không theo con đường đấu tranh giai cấp mà là một người yêu nước. <br /><br />Những nhận định khởi từ nền tảng thứ nhất có thể dễ dàng giải thích bằng thế đứng nghiêng về phía này hay phía khác và cũng dễ dàng thẩm định mức độ chân xác do dụng ý đề cao hoặc hạ thấp đối tượng. Từ nền tảng này, thế đứng của người cầm bút luôn giữ vai trò quyết định sự hình thành các nhận định được phát biểu trong khi yêu cầu khắc họa chính xác về đối tượng có thể sẵn sàng bị gạt bỏ nếu cần thiết.<br />Những nhận định khởi từ nền tảng thứ hai không nằm trong vòng chi phối của các thế đứng nghiêng về phía này hay phía khác nên có thể kể là biểu hiện hoàn toàn hướng nhìn chủ quan của người cầm bút. Nhưng hướng nhìn chủ quan của bất kể cá nhân nào cũng không thoát khỏi qui luật hình thành dựa trên tác động của mọi mặt diễn hóa sự sống bao gồm từ cảnh ngộ, tâm tư riêng biệt của từng cá nhân tới khung cảnh thực tế chung của thời đại thông qua cách tiếp nhận cũng hoàn toàn riêng biệt của từng cá nhân. Một thảm cảnh chiến tranh, một hành vi tranh đấu, một lời nói dịu dàng, một giai thoại cảm động hay vóc dáng, cử chỉ của một nhân vật nào đó... luôn ghi lại dấu ấn khác nhau trong tâm tư của các đối tượng để từ đó dẫn tới những hướng nhận định không thể tương hợp. Những nhận định trái ngược từ nền tảng này rất khó khăn cho nỗ lực giải thích và thẩm định mức chân xác vì không giới hạn theo một định hướng và vô cùng phức tạp.<br /><br />Dù vậy, đối diện với những nhận định đã có về Hồ Chí Minh vẫn là bước bắt buộc phải qua để xóa những lớp mây mù che khuất một khuôn mặt thật đầy bí ẩn hầu có thể hoàn tất cái công việc nhận dạng chính xác về một nhân vật lịch sử mà nhu cầu thực tế Việt Nam đang đòi phải đáp ứng.<br /><br />Chúng tôi sẽ cố gắng xem xét tất cả những nhận định trên từ nhiều góc độ, phân tích trên cả 3 phương diện lịch sử, chiến lược sách lược và chủ thuyết với mong ước đi tới một nhận định tổng hợp thể hiện mức chính xác hơn. <br /><br />Khi dùng từ tổng hợp, chúng tôi đã nhớ tới từ ngoại ngữ synthétique hay synthetical và có thể khiến bạn đọc liên tưởng tới các từ synthèse hay synthesis vừa có nghĩa khoa học vừa có nghĩa triết học đã được biết trong quá trình biện chứng tam cấp của Hégel: Đề (thèse), Phản Đề (antithèse), và Hợp Đề hay Tổng Đề (synthèse) (1). Sự liên tưởng như vậy không có hại gì, vì trong hàng trăm tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, hoặc hàng ngàn câu nói ca tụng hay chỉ trích ông, quả tình, nói chung, có hai xu hướng trái ngược nhau, như đề với phản đề. Nếu từ đó đưa ra một nhận xét cân bằng hơn thì cũng là một thứ tổng đề hay hợp đề nào đó.<br /><br />Nghĩa khoa học của từ tổng hợp (synthèse) thì biểu hiện cụ thể bằng công việc tại các phòng thí nghiệm: phân tích (analyse, analysis) và tổng hợp (synthèse, synthesis). Đem nước phân tích sẽ thành khinh khí và dưỡng khí. Đem 2 chất khí này tổng hợp theo tỷ lệ H2O sẽ có nước. Như vậy tổng hợp khác hẳn tổng cộng và càng khác với pha trộn (mélange). <br /><br />Chính trong khái niệm đó, chúng tôi chọn từ tổng hợp với ý nghĩ xác định không theo đuổi công việc pha trộn hay chỉ đúc kết, tổng cộng các nhận định đã được phát biểu về Hồ Chí Minh.<br /><br />Nhưng việc phân tích và tổng hợp khoa học luôn đòi phải có chất xúc tác thì việc nhận dạng một con người không thể thiếu nhận thức về môi trường sống của con người đó. Tác động hỗ tương giữa môi trường sống và con người không chỉ giúp xác định mức chính xác của các biến cố liên hệ đến con người mà còn giúp thấu triệt quá trình hình thành những nét đặc trưng của chính con người. Môi trường của một con người luôn thay đổi theo thời gian và con người cũng có thể liên tục thay đổi môi trường nên việc đáp ứng nhu cầu nhận thức về khía cạnh này đòi hỏi không thể rời xa những thay đổi đó. <br /><br />Một cách cụ thể, để nhận dạng Hồ Chí Minh, bắt buộc phải nhìn lại những môi trường sống của ông khi còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung tự Cuông hay Coong hay Bé Con, khi mang tên Nguyễn Tất Thành để đến trường cho tới lúc xuất dương, khi mang tên Ba ở trên tàu biển, khi mang tên Nguyễn Ái Quốc ở Pháp chung với các nhà cách mạng Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh (và có thể cả Phan Châu Trinh), khi một mình mang cái tên đó, khi lấy tên Lý Thụy, Vương, Tống Văn Sơ, Hồ Quang... ở Trung Hoa và ở Xiêm, khi chọn cái tên cuối cùng Hồ Chí Minh “để ghi nhớ không nguôi người vợ Trung Hoa Tăng Tuyết Minh”, một nữ hộ sinh Kitô giáo, một đảng viên cộng sản trung kiên và một người chung tình.(**) <br /><br />Tất nhiên khi nhận dạng một nhân vật đấu tranh, những ghi nhận về môi trường sống không thể khuôn hạn trong thực trạng sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa mà bắt buộc phải mở rộng qua phạm vi chính trị với những ghi nhận chính xác về các biến cố, các lực lượng cùng các chủ thuyết, các chiến lược sách lược đấu tranh... Thiếu những ghi nhận trên, bức tường trở ngại sẽ trở thành bất khả vượt với độ cao vòi vọi. <br />Bởi vì, bằng cách nào để nhận dạng nhân vật Hồ Chí Minh khi không thấu hiểu về chủ nghĩa cộng sản, không thấu hiểu về chiến lược sách lược của tổ chức Đệ Tam Quốc Tế (cụ thể là Liên Xô), không thấu hiểu về cách thức Cộng Sản thu dụng, đào tạo Hồ Chí Minh cùng nhiệm vụ ông đã nhận lãnh? Và bằng cách nào để nhận dạng Hồ Chí Minh, khi không thấu hiểu về tổ chức Đảng và Chính Phủ do ông lãnh đạo, không thấu hiểu về chủ trương đường lối của ông trong cuộc chiến Việt Nam, không thấu hiểu về cái chế độ mà ông đã để lại như một di sản? <br /><br />Ý thức về yêu cầu đó khiến chúng tôi hiểu rằng dù chọn từ tổng hợp để định danh cho công việc của mình, giới hạn hiểu biết của chúng tôi khó cho phép chúng tôi vượt qua mức độ chỉ góp phần cho nỗ lực tiến tới một nhận định tổng hợp về Hồ Chí Minh.<br /> <br />*<br />Về suy luận, chúng tôi phối hợp phương pháp cổ điển giản đơn của Aristote (384–322 B.C) từng phổ cập bởi các triết gia lớn như Saint Thomas Aquinas (1225-1274), René Descartes (1596-1650)... với biện chứng pháp của Friedrich Hégel (1770-1831), duy vật biện chứng của Karl Marx (1818-1883), suy diễn theo cả diễn dịch pháp (deduction) lẫn quy nạp pháp (induction), vừa khởi từ các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết để đi tới những sự kiện cụ thể, vừa đi ngược từ những sự kiện cụ thể trở về các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết. Nói một cách nôm na, xét cây để hiểu quả, và ngược lại, xem quả để biết cây. <br /><br />Đây là một con đường gập ghềnh, nhưng chúng tôi không còn chọn lựa nào khác để có thể đạt kết quả tương đối hợp với mong mỏi. <br /><br />Chúng tôi hy vọng phương pháp này sẽ giúp vượt khỏi khuyết điểm võ đoán rất thường xẩy ra với tất cả mọi người để góp phần tích cực vào công việc loại bỏ những đám mây mù cho tới lúc này vẫn không ngừng che phủ nhân vật Hồ Chí Minh và vì thế vẫn tiếp tục ngăn trở mọi nỗ lực đánh giá chính xác về thực tế lịch sử Việt Nam nửa thế kỷ qua. Nhưng chúng tôi đạt được mức độ nào trong công việc vẫn là vấn đề của thực tế và hoàn toàn theo sự lượng định của bạn đọc. <br /> <br />*<br />Nội dung sách được chia làm 3 phần. <br />Phần I và II giới thiệu và phân tích sơ lược về những tác phẩm viết về đề tài Hồ Chí Minh đã xuất bản, gồm 2 loại: Loại tiểu sử và loại nhận định. <br />Mỗi loại này đều được chia thành 2 theo phân loại tác giả: <br /><br />– 1. Tác giả ngoại quốc<br />– 2. Tác giả Việt Nam. <br /><br />Những tác phẩm được giới thiệu hầu hết đều trên dưới 500 trang với nội dung đa dạng và phức tạp. Do đó, chúng tôi chỉ tóm tắt những ý kiến trực tiếp liên hệ đến nhân vật Hồ Chí Minh hoặc giúp tìm hiểu bối cảnh sống của Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên cuộc chiến Việt Nam, đảng CSVN, Quốc Tế CS, chủ nghĩa CS, chiến lược chiến thuật CS ... đều là những bối cảnh cần lưu ý. Việc chọn lọc và trưng dẫn ý kiến của các tác giả tùy theo nhu cầu của đề tài và mục đích của cuốn sách. Có những ý chúng tôi trưng dẫn nhiều lần có thể do được nhiều tác giả cùng lập lại, có thể do muốn nhấn mạnh sự tương đồng hay dị biệt giữa các tác giả và cũng có thể do dụng ý để độc giả tự giải thích lý do tại sao đã có sự đồng ý hoặc bất đồng về một vấn đề nào đó.<br />Khi chọn giới thiệu các tác phẩm, chúng tôi không đặt nặng vấn đề xu hướng chính trị mà trước tiên dựa vào tầm vóc nội dung và mức độ đóng góp cho vấn đề nhận dạng Hồ Chí Minh. Tuy vậy nếu xét về xu hướng đối nghịch của các tác giả được giới thiệu, chúng tôi vẫn giữ được mức tỷ lệ tương đối cân bằng. Thực ra, ngoài các tác giả đứng hẳn về một phe rõ rệt, thái độ chính trị của các tác giả, dù có thể gọi là đối nghịch, vẫn rất đa dạng thay đổi từ cực tả sang cực hữu hoặc ngược lại với nhiều sắc thái khác nhau. <br /><br />Chúng tôi cũng không gạt bỏ một số tác giả thực sự là thủ hạ của Hồ Chí Minh hoặc một số tác giả chống đối không che dấu thái độ hằn học với ông Hồ, dù sự việc này có thể khiến những nhà nghiên cứu không đồng ý vì phải đối diện với thái độ tôn sùng quá độ hoặc những từ ngữ thiếu tao nhã. Theo chúng tôi, thái độ tôn sùng mù quáng của thủ hạ cũng có thể phản ảnh phần nào tính cách của nhân vật trong khi giữa thảm họa chết chóc, đau thương xẩy ra với hàng chục triệu sinh linh, tiếng nói của các nạn nhân hay nhân chứng từng trải những cảnh tàn bạo khủng khiếp, biểu hiện sự phẫn nộ và lòng đau xót cũng có một giá trị đóng góp tích cực cho công việc nhận dạng nhân vật có cuộc đời gắn liền với sự trạng đó. <br /><br />Trong Phần III, chúng tôi chắt lọc một số ý kiến khác nhau cùng những dữ kiện đa dạng mà các tác giả cung cấp đã được giới thiệu nơi phần I và II để tìm lời giải thích cho mọi vấn đề liên quan đến nhân vật Hồ Chí Minh và cuộc chiến tranh Việt Nam theo hướng góp phần giúp độc giả đánh giá một cách tổng hợp về nhân vật này. <br />Ý kiến của các tác giả rất phức tạp, vừa trái ngược gay gắt vừa bao gồm từ cực tả sang cực hữu vừa mở rộng liên quan đến rất nhiều vấn đề. <br /><br />Trong nỗ lực của mình, chúng tôi đã tập trung các ý kiến đó trong một số điểm chủ yếu thường gây tranh cãi như sau: <br /><br />– Hồ Chí Minh là quốc gia hay cộng sản? <br />– Hồ Chí Minh đã có thể là một Tito Việt Nam? <br />– Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm về việc bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu, về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, về cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, về vụ Tết Mậu Thân...? <br />– Hồ Chí Minh là người có lòng nhân ái hay chỉ khéo đóng kịch? <br />– Hồ Chí Minh đã bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ lấn át kiềm chế nên gây ra cuộc chiến đẫm máu sau 1954? <br />– Nếu Hồ Chí Minh còn sống đến 1975, tình hình Việt Nam đã tốt đẹp hơn?... <br />Những vấn đề nêu trên sẽ được lý giải trong các chương của Phần III.<br /> <br />CHÚ THÍCH: <br />__________________________<br /> <br />(01) Về sau Karl Marx, học trò của Hégel, cho là duy tâm nên đã biến chế ra một quá trình "tam cấp" khác của biện chứng pháp duy vật: Quyết thể (affirmation), Hủy thể (négation) và Hủy thể của hủy thể (négation de la négation). Hay Khẳng Định, Phủ Định và Phủ Định của Phủ Định.<br />(02) Theo tác giả Trung Cộng Hoàng Tranh cho biết năm 2001. Unknownnoreply@blogger.com0