Sunday, September 24, 2006

* Chương 46* HỒ CHÍ MINH từ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 tới Cải Cách Ruộng Đất 1953

Hai dấu ấn đậm đà mà chủ nghĩa Cộng Sản ghi lại trên đời sống Việt Nam, đặc biệt tại nông thôn, là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào nổi dậy đầu thập niên 1930 chống chính quyền đương thời lúc đảng Cộng Sản Việt Nam vừa thành lập và phát động đấu tranh với danh nghĩa Cộng Sản.
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện vào hai thập kỷ sau, đầu thập niên 1950, khi Cộng Sản thực sự nắm quyền trên một phần đất nước.
Cả hai biến cố đều do Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương nhưng đều có dư luận biện giải là Hồ Chí Minh không chịu trách nhiệm.
Từ giữa thập niên 1930 tới cuối thập niên 1940, gần như các tài liệu Cộng Sản Việt Nam thường coi Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự phát nằm ngoài ý định của Hồ Chí Minh và cách biện giải này đã ảnh hưởng tới nhiều tác giả nghiên cứu về Việt Nam và con người Hồ Chí Minh.
Từ thập niên 1950 trở về sau, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được nhìn theo chiều hướng khác hơn không còn được coi là một cuộc nổi dậy mang tính tự phát nữa.
Sở dĩ có tên Xô Viết Nghệ Tĩnh vì “... khi được tin nông dân nổi dậy ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã vội vã báo cáo hồi tháng 11 năm đó (1930) cho Quốc Tế Cộng Sản và Quốc Tế Nông Dân là: “Hiện nay ở một số làng Đỏ,  Xô Viết Nông Dân đã được thành lập”. Từ đó cái tên Xô Viết Nghệ Tĩnh được tung ra và trở thành lịch sử.” (1)
Phong trào đã được xác định không khuôn hạn trong hai tỉnh Nghệ – Tĩnh mà phát động trên toàn quốc. Trần Văn Giàu so sánh với cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng như sau: "Nếu Yên Bái nổi lên ở một vài địa phương lẻ tẻ trên chỉ một xứ Bắc Kỳ, thì cao trào 1930-1931 phát triển trên toàn quốc, khắp Trung, Nam, Bắc.” (2)
Hồng Hà phổ biến nội dung báo cáo ngày 29-9-1930 của Hồ Chí Minh gửi Đệ Tam Quốc Tế ghi rõ “nông dân Gia Định, Chợ Lớn và Tân An ở Nam Kỳ cũng biểu tình ngày 12-9 (và) ngày 17 nông dân Gia Định lại biểu tình”. (3)
Dương Trung Quốc viết: “Phối hợp với Xô Viết Nghệ Tĩnh, phong trào cách mạng Việt Nam ở các tỉnh Nam Trung Kỳ cũng phát triển mạnh… Các cuộc đấu tranh này đều có vũ trang và uy hiếp các cơ quan chính quyền của địch. Tiêu biểu trong cao trào này là cuộc biểu tình vũ trang thị uy của 3000 nông dân huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) ngày 7-10-1930 …” (4) 
Sử gia Pháp Daniel Hémery ghi là trong ít tháng từ tháng 5-1930 đến mùa hè 1931, cộng sản đã tổ chức 124 cuộc biểu tình bạo động khắp nơi.
Tài liệu Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam được giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam hiện nay đưa ra con số gấp mười lần con số của sử gia Hémery – “Từ tháng 2 năm 1930 đến tháng 4 năm 1931 trong cả nước đã có 1236 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân… Chỉ trong tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh, 29 cuộc ở miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở miền Nam ... Đấu tranh của quần chúng đã bùng nổ khắp nơi, tập trung ở các nhà máy, xí nghiệp, vùng mỏ như Hànội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả, Vinh – Bến Thủy, Saigon, Chợ Lớn vân vân...; ở các vùng nông thôn như Gia Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nam, Kiến An...” (5)
Phong trào được phát động với khẩu hiệu “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, biểu hiện tính triệt để của giai cấp đấu tranh đã dẫn đến thảm cảnh đẫm máu tại nhiều địa phương. Để đào tận gốc, trốc tận rễ bốn thành phần thù địch là trí thức, phú nông, địa chủ, kỳ hào, đấu tranh bạo động trở thành phương tiện chủ yếu.
Nông dân được tuyên truyền kích động nổi dậy trừng trị kẻ thù của giai cấp bằng mọi biện pháp kể cả tàn sát và tàn sát bất phân già trẻ lớn bé. Vì, dù là trí, phú, địa, hào thì kẻ nào cũng có gia đình, con cháu trong khi khẩu hiệu nêu rõ phải đào tận gốc, trốc tận rễ nên không thể nương tay.
Nhưng không chỉ riêng máu của những thành phần trên phải đổ mà máu của nông dân cũng chan hòa vì sự đàn áp dữ dội của chính quyền thực dân Pháp.
Để đối phó với cuộc bạo động ngày 12-9-1930 của nông dân phủ Hưng Nguyên, Nghệ An, người Pháp đã đưa máy bay tới thả bom vào giữa các đám đông sát hại 217 người. (6)  Bạo động kéo dài cho tới mùa hè 1931 và trải rộng trên nhiều địa phương nên thảm cảnh chém giết đã tạo một ấn tượng kinh hoàng đối với quần chúng khắp nước. Hai tiếng Cộng Sản trở thành mối đe dọa khủng khiếp vì là ám ảnh chết chóc từ cả hai phía, Pháp và những người đấu tranh cách mạng.
Trong Lời kêu gọi được thông qua vào dịp thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam vào đầu tháng 2-1930 tại Hong Kong, Hồ Chí Minh đã viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” (7)
Đi vào bước ngoặt lịch sử này, Đảng đưa ra công việc đầu tiên cho giai cấp vô sản được đánh giá đã trưởng thành là nổi dậy triệt hạ 4 kẻ thù trí-phú-địa-hào. Đảng đã theo đúng quan điểm chiến lược Lênin chọn giai cấp bần nông làm nòng cốt với mục tiêu cụ thể là tịch thu tài sản ruộng đất của các thành phần thù địch chia lại cho dân – tức giai cấp vô sản. Cảnh sống khó khăn và trình độ dân trí thấp kém đã giúp các cán bộ tuyên truyền nhanh chóng lôi cuốn được những đám đông.
Phong trào được hưởng ứng và kết quả những ngày đầu có vẻ thuận lợi nên lập tức các kiểu mẫu chính quyền Xô Viết được thành lập gây hứng khởi cho nhóm lãnh đạo khiến Hồ Chí Minh vội vã báo cáo ngay với Đệ Tam Quốc Tế về việc đã có những làng Đỏ tại Việt Nam với các Xô Viết Nông Dân.
Nhưng, hành động đấu tranh mang tính thúc đẩy những cuộc cướp của giết người đã gây ác cảm trong dư luận.
Nhà báo Nguyễn Phan Long trên tờ Đuốc Nhà Nam trong số ra ngày 8-8-1930 đã có một bài viết về những cuộc nổi dậy này được Trần Văn Giàu trích lại như sau: "Tôi dám chắc rằng trong đám dân biểu tình, ngoài mấy anh đầu đảng ra không nói, còn mấy người sau đều là đám dân ngu khờ khạo bị chúng cám dỗ hết thảy. Thiệt vậy, theo người ở Hốc Môn nói với tôi, có nhiều người ở trong làng xưa nay là dân nghèo khù khờ ngu dại thế mà bị Cộng Sản đến diễn thuyết, nói những lời dưới đất trên trời, làm cho những người ấy hóa ra những người biểu tình rất hăng hái!”
Trần Văn Giàu cũng trích lại lời phát biểu của nhà báo Dương Bá Trạc trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn: “Làm cộng sản là những thằng dốt, theo cộng sản là những đứa ngu.”
Như thế, ngay trong lần đầu công khai xuất hiện tại Việt Nam, Cộng Sản đã không thu phục nổi nhân tâm.
Đây là lý do khiến đảng Cộng Sản phải ẩn mình dưới chiêu bài Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm và cũng là lý do khiến một thời gian dài về sau cán bộ Cộng Sản các cấp thường xuyên coi Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự phát.
Những luận điệu này cho tới năm 2000 còn được nhiều tác giả tiếp tục vận dụng để chứng minh sở kiến của mình như Douglas Pike, William J. Duiker…cho rằng Hồ Chí Minh không chủ trương bạo động nên không chịu trách nhiệm về những thảm cảnh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Douglas Pike còn thu hẹp phong trào vào phạm vi vài huyện của 2 tỉnh Nghệ Tĩnh để cho đó là những biến cố địa phương nhỏ hẹp.
Thực ra, chính Hồ Chí Minh vẫn coi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là một thành tích lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam với sự đánh giá: “Tuy đế quốc đã dập tắt phong trào đó trong bể máu, nhưng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam” (8)
Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh xác nhận chỉ 2 tháng sau khi thành lập, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát động những cuộc tranh đấu lan rộng khắp nước kéo dài suốt 13 tháng, từ tháng 4-1930 đến tháng 5-1931 và viết: “Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến, và lập chính quyền Xô Viết.” (9)
Những người như Douglas Pike, William J. Duiker… có vẻ muốn thu hẹp cái bể máu Xô Viết Nghệ Tĩnh vào phạm vi một địa phương và cố đẩy thần tượng của mình ra xa bằng các màu sắc hiếu hòa ghét bạo lực, nhưng Hồ Chí Minh lại không che đậy nổi sự hứng khởi trước những cuộc nổi dậy.
Thêm nữa, riêng việc Hồ Chí Minh thường xuyên báo cáo cho Đệ Tam Quốc Tế ngay lúc vừa bắt đầu có các cuộc bạo động đã đủ để không thể bảo rằng Hồ Chí Minh không chịu trách nhiệm về những thảm cảnh đã xẩy ra.
Trong bản báo cáo ngày 29-9-1930, Hồ Chí Minh còn nêu rõ số người bị chết và cho biết đã chỉ thị cho đảng viên, đồng thời xin chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế về những bước đi tiếp: “Hơn 200 người đã bị Pháp giết... Chúng tôi đã chỉ thị ngay cho các đảng viên Nam Kỳ ở trong nước cố gắng hết sức mình thu xếp một cuộc họp của trung ương để quyết định mọi việc....Đề nghị cho biết ngay chúng tôi phải làm gì và các đồng chí có thể làm gì giúp họ.”  (10)
Báo cáo này chỉ có thể giúp Hồ Chí Minh trút trách nhiệm cho Đệ Tam Quốc Tế với lập luận không thể làm trái chỉ thị thượng cấp. Nhưng trút tội theo cách này thì khác gì kẻ cầm dao giết người trút tội cho kẻ trả tiền mướn.
Tuy vậy, cách trút tội này đã được vận dụng khá nhiều vào hai thập kỷ sau, khi Cộng Sản Việt Nam tiến hành cải cách ruộng đất tại miền Bắc.
Cải Cách Ruộng Đất là việc bắt buộc phải làm tại các nước nặng về nông nghiệp với nhiệm vụ phá bỏ quyền tư hữu tiến tới hợp tác hóa nông nghiệp để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô, Trung Quốc đều thực hiện cải cách ruộng đất sau khi Cộng Sản giành được chính quyền.Việt Nam cũng bước vào diễn trình này sau khi Cộng Sản kiểm soát một phần lãnh thổ và tái xuất hiện dưới tên gọi mới Đảng Lao Động Việt Nam. 
Nhưng, Cải Cách Ruộng Đất không chỉ nhắm riêng về kinh tế mà đặc biệt chú trọng về chính trị với mục tiêu củng cố quyền lực cho Đảng. Được hướng dẫn trực tiếp bởi các đặc phái viên thổ địa Trung Cộng, giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã thuộc lòng bài học kinh nghiệm Hoa Lục sau khi Quốc Dân Đảng Trung Hoa thất bại như sau: “… Quốc Dân Đảng là đảng vốn có thế lực cực lớn ở Hoa Nam, bắt rễ khá sâu trong xã hội Trung Quốc… Số người của Quốc Dân Đảng bỏ chạy sang Đài Loan hoặc ra nước ngoài rất ít so với số dân khổng lồ. Có một số người chỉ trốn loanh quanh, tạm lánh rồi trở lại quê hương. Cho nên cải cách ruộng đất là biện pháp cơ bản để phát hiện rồi triệt hạ hết mọi tổ chức Quốc Dân Đảng và vô vàn tổ chức thanh niên, phụ nữ, xã hội, tôn giáo, từ thiện, thể thao, nghệ thuật có dính đến Quốc Dân Đảng … Tay chân của Quốc Dân Đảng hoặc  liên quan đến Quốc Dân Đảng thâm nhập rất sâu, leo lên rất cao, cần cảnh giác phát hiện và nếu cần, giải thể hết bộ máy cũ, tạo nên bộ máy hoàn toàn mới gồm những trung kiên, cốt cán, phát hiện và được rèn luyện trong cuộc đấu tranh “long trời lở đất” này…” (11) 
Kinh nghiệm nêu trên dẫn đến ý kiến khắp các địa bàn, cơ cấu chính quyền Cộng Sản Việt Nam khó tránh tình trạng bị phản động mai phục và Cải Cách Ruộng Đất chính là biện pháp cơ bản để phát hiện, tiêu diệt những phần tử này –  Hoàng Văn Hoan gọi là “mở rộng thành vấn đề chỉnh đốn tổ chức”.
Ngay sau đại hội Đảng kỳ 2 tháng 12-1951 tại Việt Bắc, vấn đề Cải Cách Ruộng Đất được chuẩn bị và chuẩn bị khá kỹ từ thực tế đến pháp lý.
Trường Chinh trở thành Trưởng Ban Cải Cách Ruộng Đất gồm Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng, Chu Văn Biên. Một số địa phương thuộc Thanh – Nghệ – Tĩnh và Thái Nguyên được chọn làm thí điểm phát động trong thời gian chuẩn bị các văn kiện pháp lý.
Ngay trong thời gian mở đầu này, một chuyện chấn động đã xẩy ra: “Khi đội phát động đến vùng đồn điền Đồng Bẩm sát ngoại ô thành phố Thái Nguyên làm thí điểm phát động nông dân, chủ đồn điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng hộ các chiến sĩ Cộng Sản từ thời bí mật, từ những năm 1937-1938… Chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đã được bà che chở nuôi dưỡng. Hai con trai của bà hoạt động Việt Minh từ thời bí mật, đi bộ đội giải phóng…Cố vấn Trung Quốc nhận định bừa rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu. Một số nông dân chất phác ngây thơ kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà. Những người này bị cố vấn Tàu và ông Đội Trưởng quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che, chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đấu tranh trực diện của nông dân, kể tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với màn xử bắn”. (12)
Hoàng Quốc Việt là người từng được bà Nguyễn Thị Năm che chở, nuôi dưỡng đã tới báo cáo với Hồ Chí Minh và thuật lại: “Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ và lại là người từng nuôi cán bộ Cộng Sản và mẹ một chính ủy trung đoàn Quân Đội Nhân Dân đang tại chức”. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói ông Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này! Thế nhưng không có gì động đậy theo hướng đó cả”. (13)
Sau đó nạn nhân đã bị đưa ra xử bắn và “khắp đồng quê miền Bắc” diễn ra “những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp “địa chủ” (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau…Họ đều được biểu dương là lập trường giai cấp vững chắc và dứt khoát, giác ngộ giai cấp sâu sắc, là những đảng viên trung kiên của Đảng, thấm nhuần tận xương tủy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, được nêu gương để toàn đảng học tập!…Hơn 10 ngàn người đã bị bắn trong các tòa án nhân dân vừa hừng hực khí thế kích động căm thù, vừa mù quáng kỳ quặc, một chiều theo kiểu a dua của đám đông – những cơn động kinh của đám đông cuồng tín ít học.” (14)
Hoàng Văn Chí là người từng đứng trong hàng ngũ Việt Minh chống Pháp trước 1954 chia Cải Cách Ruộng Đất làm 2 đợt, đợt đầu gọi là “Giảm Tô”, mỗi xã trong khoảng 10 ngàn xã tại Bắc Việt phải chọn ra một địa chủ để hành quyết. Như vậy 10 ngàn chỉ là số nạn nhân của đợt đầu. Sang đợt 2, con số phải chết ở mỗi xã theo tiêu chuẩn đề ra tăng lên 5. Nếu cộng cả 2 đợt ít nhất phải có 60 ngàn người bị hành quyết tại chỗ. Nhưng theo Hoàng Văn Chí, “chính sách cô lập nổi tiếng từng phải chịu trách nhiệm về số người chết có lẽ 10 lần nhiều hơn số đã bị xử bởi các “tòa án nhân dân đặc biệt”. (15)
Sắc lệnh 149-SL qui định về chính sách ruộng đất và sắc lệnh 151-SL qui định về trừng trị địa chủ do Hồ Chí Minh ký ngày 12-4-1953 là thời gian đang tiến hành chiến dịch giảm tô mà ý nghĩa đã được diễn tả như sau: “Nhà Nước Việt Nam đã quyết định đưa đấu tranh phản phong tiến lên một bước mới, tiếp thu kinh nghiệm của Trung Quốc đã sử dụng bạo lực chính trị của quần chúng đấu tranh đòi địa chủ phải giảm tô, giảm tức.” (16)  Đây cũng là đợt thí điểm của Cải Cách Ruộng Đất.
Ngày 4-12-1953 các sắc lệnh trên được Quốc Hội thông qua và Hồ Chí Minh chính thức ban hành ngày 19-12-1953 nhân kỷ niệm Ngày Toàn Quốc Kháng Chiến mở đầu cho các đợt chính thức của Cải Cách Ruộng Đất trên khắp miền Bắc.
Thực tế của việc sử dụng bạo lực chính trị quần chúng và con số nạn nhân tại một số địa phương từ ngày chính thức ban hành chính sách tới khi có quyết định sửa sai theo ghi nhận của tạp chí Nghiêu Cứu Lịch Sử số 267 tháng 4-1993 và nội san Cải Cách Ruộng Đất các số 10,11,14 xuất bản tại Hà Nội đầu năm 1956 như sau: “Ở đồng bằng Bắc Bộ trong số 2033 xã đã có 63,111 hộ bị qui là địa chủ nay sửa lại 31,844 không còn là địa chủ. Con số địa chủ chỉ có 31,269 hộ tức chiếm 2.2% trong tổng số hộ ở nông thôn. Ở một xã như xã Trường Vân Thanh Hóa chỉ có 11 địa chủ bị qui lên 65 tức 54 người bị tố oan, bị đấu tố, tù đầy và kể cả bị đánh chết. Trong số 2033 xã, số người bị qui kết là địa chủ lên tới 14,908 người sau đợt sửa sai chỉ còn 3,932 người tức tố sai 10,976 người…
Trong đấu tranh thoái tô, rất nhiều cán bộ dùng nhục hình: treo, đánh, bắt cởi quần áo đứng ngoài đêm rét… Đồng chí L. ở xã Đảng Cương bắt con địa chủ ra truy tố không được, bực quá ra lệnh cho anh em du kích trói chặt cánh khuỷu nó lại và treo lủng lẳng lên cành cây…
Ở xã Hồng Phong, T. bắt con địa chủ Thị Công truy tố. Đồng chí gọi đứa con nó mới 13 tuổi đến giải thích để phản hóa rồi cho nó về với mẹ nó không được. Đồng chí T. nổi giận cho trói đứa bé lại treo ngược lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Một mặt bắt mẹ nó quỳ xuống, dang hai tay ra, mỗi bên đeo một hòn đá nặng rồi đổ nước mắm vào mũi. Đồng chí tưởng nhục hình như thế là moi được tô nhưng rút cục chẳng ăn thua gì (17)
Theo Thành Tín tức cựu đại tá Cộng Sản Bùi Tín, Cải Cách Ruộng Đất gồm đợt thí điểm và 5 đợt tiếp nối, nhưng bắt đầu bước sang đợt 5 vào khoảng đầu năm 1956 thì phải ngưng, vì hậu quả có thể dẫn tới một tình thế bi đát khó lường đoán. Nguyễn Quang Ngọc trong Tiến trình lịch sử Việt Nam cũng cho biết Cải Cách Ruộng Đất gồm 5 đợt tiến hành trong 3653 xã, đã chia khoảng 334,100 ha ruộng đất cho khoảng 2 triệu hộ nông dân không có hoặc thiếu ruộng (18)
 Một nhân chứng cũng là nạn nhân và thoát chết, Phạm Văn Trì, người gốc Hưng Nguyên, Nghệ An từng qua các cuộc đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất cho biết: “… Ở miền Bắc có khoảng 5000 xã. Không phải xã nào cũng đấu cả. Không phải người nào cũng đấu cả. Ví dụ, ông Hồ Chí Minh và Trường Chinh đưa ra một tỉ lệ một xã 1000 dân thì phải có 50 người bị đấu tức 5%. Cứ theo tỉ lệ mà đấu cho đủ số. Ví dụ xã này nghèo quá không đủ số thì tìm sao những người hống hách chút ít đôn lên cho đủ số. Phải đúng tỉ lệ đưa ra không có cũng phải tìm cho đủ. Miền Bắc coi như có 5000 xã thì số đấu tố chết là 250 ngàn người.
– Ông có đích thân chứng kiến những vụ đấu tố không?
– Có! Tôi xin kể cho ông một vài việc tôi chứng kiến tận mắt. Có một vụ đấu tố trong đó nạn nhân bị lột hết cả quần áo ra. Người ta lấy than và dầu hôi bôi vào những chỗ có lông trên thân mình người đó, treo lên và đốt, cháy như nướng trui. Đứa con của nạn nhân mới 3 tuổi, không biết gì, đứng nhìn thấy cha mình bị đốt tưởng đang làm trò nên té lên cười. Có một anh nông dân đứng gần đó thấy vậy, lấy mã tấu chặt đầu đứa nhỏ. Đầu nó rơi xuống đất mà miệng vẫn còn cười.
– Trong các vụ đấu tố đó, nghe nói có một số địa chủ và phú nông bị chôn, chừa cái đầu lên để cho xe cày. Ông có chứng kiến việc đó không?
– Tôi có chứng kiến thế này: Bắt địa chủ ăn cứt, uống nước đái, 3, 4 thằng cầm tay kéo đứt ra, lấy kim chích ngón tay bắt khai, treo người lên đốt cháy như con cá lóc … (19)
Một chứng nhân khác, Nguyễn Đình Khuê, cũng người huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, từng là nạn nhân của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh từ lúc 3, 4 tuổi và là nạn nhân của Cải Cách Ruộng Đất vào hơn hai thập kỷ sau đã kể lại về cách thức chuẩn bị cho các vụ đấu tố:
– Cha con tôi là nạn nhân. Trước khi tiến hành việc cải cách ruộng đất, họ cho cán bộ về làng, thi hành chính sách “tam cùng” với nông dân: cùng ăn, cùng ở, cùng làm. Họ luyện tập cho nông dân có tinh thần chống địa chủ, bắt cán bộ ngủ cùng giường với nông dân…
– Cách thức tố khổ địa chủ thế nào?
– Họ bắt nông dân học tập và thường bịa ra … Anh nông dân bịa ra và nói cho hắn xem có đủ hay chưa. Tập luyện công phu như vậy cả năm rồi mới bắt đầu… Tôi không hiểu tình trạng trong làng của ông bạn tôi (tức Phạm Văn Trì) như thế nào, nhưng trong năm đó trong làng tôi, trong xóm tôi, nông dân họp đêm, họp tới 2, 3 giờ sáng. Học tập xong rồi mới bắt đầu thực hành…
– Số người bị đấu tố bị giết là bao nhiêu?
– Số người trong làng tôi, có mình cụ tôi. Ông cụ tôi bị giam trên núi mấy tháng thì chết. Tôi không được phép đi đâu hết nên không biết rõ số người bị đấu tố chết là bao nhiêu. (20)
Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên kể lại:
“Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa... người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng...
Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. “Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm”, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi cho đến khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống. (....)
Người ta cắm gai vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại cắm cái gai thêm một chút, làm cho cô ta rú lên vì đau, quằn quại trong giây trói.
Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình – những đứa trẻ này chắc chắn lớn lên với trái tim không phải của giống người...” (21)  
Nhà văn nữ Dương Thu Hương cũng không quên cảnh tượng đã xẩy ra khi mới sáu, bảy tuổi và ghi lại trong tác phẩm Những Thiên Đường Mù (22) dưới hình thức tự thuật của nhân vật trong tác phẩm:
“Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình, đầu gục xuống, hai tay vòng trước ngực. Trước mặt hai người là dân làng đốt đuốc ngồi. Họ có nhiệm vụ lắng nghe những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả đảo địa chủ”, họ có nhiệm vụ giơ tay lên hô thật to: “Đả đảo! Đả đảo!”  ....
... Bên tay trái bà nội tôi và cô tôi, những người khác quỳ gối chờ tới lượt họ. Cứ mỗi lần tiếng hô “Đả đảo” cất lên họ lại run bần bật. Chỉ có cô Tâm không hề run rẩy...
... Cậu nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, đinh tai nhức óc. Rồi tiếng hô uy hiếp vọng vào:
– Kiên quyết đánh đổ địa chủ Nguyễn Thị Tâm
– Kiên quyết đánh đổ...
Cậu Chính nhìn bố tôi hất hàm:
– Nghe rõ chưa?
Bố tôi không trả lời. Cậu quát:
– Đội hỏi có trả lời không?
Mặt bố tôi tái xanh, mồ hôi vã đầy hai thái dương nhưng vẫn im lặng. Lúc ấy cô Tâm bước lên:
– Bẩm thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận, dù đội không ra lệnh chúng con cũng không dám chơi trèo.
Cậu Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy đội cải cách là Thượng Đế, là Trời....”
Tài liệu giáo dục chính thức Tiến trình lịch sử Việt Nam cho biết Cải Cách Ruộng Đất đã giúp 2 triệu hộ nông dân nghèo có ruộng tức liên can tới trên 2 triệu hộ. Nếu chỉ tính mỗi hộ trung bình có 4 người thì Cải Cách Ruộng Đất trong 3 năm liên can tới 8 triệu người và theo chỉ thị Đảng và Nhà Nước, chỉ tiêu số người bắt buộc phải đưa ra đấu tố là 5% tức đã lên tới 400 ngàn người. Con số này gần ngang với con số ước lượng mà Tổng Thống Mỹ Nixon nêu ra là khoảng nửa triệu.
Cũng theo con số chính thức do báo chí Cộng Sản Việt Nam công bố thì trong 14,908 nạn nhân đã có 10.976 người bị tố oan, thậm chí bị đánh chết tức là số nạn nhân bị hại oan lên tới hơn 70 phần trăm.
Ngay với vấn đề thế nào là oan, thế nào là ưng đã cần phải nhìn lại, trong khi ngoài số nạn nhân bị trực tiếp đưa ra đấu tố, chính sách cô lập còn hành hạ hàng triệu thân nhân của những kẻ này bằng cách bao vây, xua đuổi, tước đoạt mọi phương tiện cư trú, sinh sống, thậm chí chặn hết mọi nguồn tiếp tế thực phẩm để phải chết đói rét nơi bờ bụi… Số nạn nhân này không ai kê khai nổi và chắc chắn không thu hẹp trong giới hạn vài ba chục ngàn như một số tác giả ngoại quốc đã ước đoán.
Nhưng số lượng nạn nhân bị ngược đãi và tàn sát man rợ trong Cải Cách Ruộng Đất là bao nhiêu không nghiêm trọng bằng sự tiêu diệt mọi tình cảm thiêng liêng cao cả nơi con tim của người dân Việt Nam.
Để củng cố uy quyền của mình, Đảng đã cố thực hiện qua Cải Cách Ruộng Đất cái khẩu hiệu “thà giết lầm mười người còn hơn để cho một kẻ địch sống sót” bằng cách biến người dân thành một bày dã thú sẵn sàng dày xéo lên tương quan vợ chồng, cha con, mẹ con, huyết mạch, xóm giềng… Nỗ lực này của Đảng đã dẫn đến cái cảnh mà Dương Thu Hương ghi lại trong một bài viết vào năm 2002 “trong lịch sử “bốn ngàn năm”... triều đình Cộng Sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dậy con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm, dậy con trai chỉ vào mặt bố “đả đảo thằng bóc lột”, dậy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dầy xéo mồ mả của nhau... vào những năm 53-55 (trong CCRĐ). Tất cả những ai chưa hoàn toàn quên lãng, hẳn hiểu rõ điều đó. Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế với tha nhân....”
Trong Đêm Giữa Ban Ngày, trang 221, Vũ Thư Hiên  đã ghi rõ “Cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải Trường Chinh. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.” Mặc dù cả Vũ Thư Hiên lẫn thân phụ ông đều cố nghĩ tốt cho Hồ Chí Minh, vì những liên hệ cũ từng có.
Đầu năm 1956, khi tâm trạng phẫn uất tràn lan ở nhiều nơi thậm chí đã có những cuộc nổi dậy của dân chúng như ở Quỳnh Lưu, Ba Làng và thái độ chống đối của nhiều phần tử từng nhiệt tình theo đảng trong kháng chiến chống Pháp, nhất là ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa chống Cộng Sản tại Hungary, Đảng và Nhà Nước ra lệnh ngưng tiến hành đợt 5 Cải Cách Ruộng Đất với lý do phát hiện nhiều khuyết điểm.
Có thể nói tới lúc này cái biện pháp cơ bản để củng cố uy quyền của Đảng là Cải Cách Ruộng Đất đã đạt trọn mục tiêu đề ra trong khi mô thức hợp tác hóa nông nghiệp đã được tiến hành tại 3653 xã trong tổng số 5000 xã tức gần khắp miền Bắc.
Hơn nữa, sửa sai không phải là từ bỏ chính sách Cải Cách Ruộng Đất mà là bước tiếp nối cần thiết để củng cố thành quả đã thu hoạch suốt ba năm tiến hành Cải Cách Ruộng Đất, vì chỉ sửa sai những cách thức thi hành đã được thực hiện trong quá khứ tức là chỉ cần bằng những lời lẽ ngọt ngào tỏ ý tiếc về những việc đã rồi. 
Cách thức sửa sai được Thành Tín ghi lại như sau:
“Sau nghị quyết sửa sai, lại thành lập những đoàn cán bộ sửa sai, công bố cả một loạt tài liệu quy định các bước sửa sai, phát hành rộng rãi những văn kiện có tính pháp luật về sửa sai… Cuộc sửa sai được tiến hành ráo riết, mỗi nơi là chừng 4 tháng, có nơi hơn 6 tháng.
Các bước sửa sai đi cùng với củng cố tổ chức Đảng và Chính Quyền cơ sở. Những người bị giam giữ oan ức được trả lại tự do, sau những buổi học thanh minh và xin lỗi theo nội dung: Đảng không cố tình  mà vô tình làm sai do không kiểm tra cấp dưới; đảng rất đau xót nhận sai lầm; đảng xin lỗi mỗi đồng chí, đồng bào khôi phục danh dự và quyền lợi của các đồng chí, đồng bào.
Trong cơn khó khăn này, đảng mong mỗi đồng chí sát cánh cùng đảng sửa sai đến nơi đến chốn mà đóng góp lớn nhất của đồng chí là thông cảm với đảng, cùng đảng sửa sai và ổn định tình hình, không gây thêm bất kỳ khó khăn nào cho đảng…
Còn số người chết oan?
Những gia đình này được cán bộ cấp huyện và chủ tịch xã đến thăm viếng, nhận lỗi và an ủi. Giấy minh oan được mang đến tận nơi, với những chứng nhận phục hồi đảng tịch (nếu là đảng viên), trả lại huân chương, bằng khen, còn được tặng thêm ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh có đóng dấu của tỉnh…
Ngày 29-10-1956 tại sân vận động Hàng Đẫy, đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đứng ra nhận tội, xin lỗi, đưa ra phương án sửa sai khẩn cấp …Tại cuộc họp lớn này, người ta đẩy cụ Bùi Kỷ, một nhân sĩ trong Mặt Trận Tổ Quốc ra đọc lời khai mạc.
Sau đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp lên tiếng thuyết phục. Cái lý sự để thuyết phục là ở mặt trận, nhất là mặt trận Điện Biên Phủ, chiến sĩ ta còn lấy thân chèn pháo bất kể sinh mạng, hàng ngàn chiến sĩ bỏ mình thì việc tổn thất trong Cải Cách Ruộng Đất tuy là đáng tiếc nhưng cũng là đóng góp cho cách mạng tiến lên. Ít lâu sau, báo Quân Đội Nhân Dân đưa ra trong xã luận, chỉ rõ “chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng thêm vĩ đại, đảng ta càng thêm vĩ đại”. (23)
Để tỏ ra muốn thực sự sửa sai, Trường Chinh không còn giữ chức Tổng Bí Thư Đảng tuy nhiên được chuyển qua làm Chủ Tịch Quốc Hội và Hoàng Quốc Việt bị loại khỏi bộ chính trị, Hồ Viết Thắng, Nguyễn Đức Tâm bị đưa ra khỏi ủy ban trung ương  trong khi cán bộ cải cách ruộng đất vẫn tiếp tục là cán bộ sau một thời gian họp hành kiểm điểm những việc đã qua.
Sửa sai đã kết thúc tốt đẹp vì tình hình miền Bắc hoàn toàn thuận lợi cho việc cai trị của Đảng, nhất là khi dẹp xong các phần tử văn nghệ bất mãn thuộc các nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm.
Tuy vậy, không phải những lời chê trách hoàn toàn tắt lịm. Theo ghi nhận của sử gia Pháp Gerard Tongas (24) có mặt tại Hà Nội lúc đó thì trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, nhất là sau các vụ đàn áp ở Ba Làng, Quỳnh Lưu và nhân dân Budapest, giới trẻ Hà Nội hết sức xôn xao, đã có mưu tính biểu tình chống đối. Tuy việc không thành, nhưng sự ngưỡng mộ đối với Hồ Chí Minh sút giảm rõ rệt vì nhiều người cho rằng trách nhiệm lớn nhất trong Cải Cách Ruộng Đất  do Hồ Chí Minh phải gánh chịu. Do đó, việc trút lỗi cho thuộc cấp làm sai đã được bổ sung thêm bằng một lập luận khác: Hồ Chí Minh đã bị cả Liên Xô lẫn Trung Quốc tạo áp lực nặng nề, bắt buộc phải Cải Cách Ruộng Đất.
Những người đã rời bỏ hàng ngũ Cộng Sản như Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín đều chưa rũ hết ảnh hưởng của luận điệu này, dù cả hai đều cho rằng Hồ Chí Minh phải gánh chịu phần lớn trách nhiệm. Về áp lực của Staline, Thành Tín thuật lại:
“Đầu năm 1950…theo kể, Staline trong cuộc gặp riêng ông Hồ Chí Minh  trong điện Kremlin…đi thẳng vào vấn đề, chất vấn ông Hồ 2 điểm: vì sao giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương? Vì sao chưa tiến hành cải cách ruộng đất?
Ông Hồ đã trình bày với Staline là việc giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là Đảng lùi vào bí mật, với một bộ mặt giả công khai là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác. Hai là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rất gay gắt nên cải cách ruộng đất phải chậm lại và đã làm cuộc vận động giảm tô, giảm tức. Staline nghe, và, với bản chất thô bạo vốn có, chắc chắn đã cao giọng ra chỉ thị phải sớm đưa đảng Cộng Sản ra công khai…; chính trong kháng chiến gay gắt lại cần làm cải cách ruộng đất để huy động tinh thần và lực lượng vật chất của nông dân vào cuộc chiến đấu, cần nhớ đấu tranh giai cấp và liên minh công nông là hai nguyên lý cơ bản của cách mạng vô sản…
Ông Hồ trở về. Thế là Đảng Cộng Sản Việt Nam mở đại hội đảng lần thứ 2 vào tháng 12-1951 ở Việt Bắc, đảng ra công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam …
Còn cải cách ruộng đất? Cần thấy rõ là ông Hồ vẫn cố trì hoãn cải cách ruộng đất sau khi ở Moscou về. Cuộc kháng chiến rất khẩn trương, quyết liệt. Staline ở xa… (25)
Tháng 3-1950, Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa trở về lo ngay việc đưa Đảng Lao Động Việt Nam ra công khai vào tháng 12-1951 và mấy tháng sau, năm 1952, đã khởi sự các đợt công tác thí nghiệm cải cách ruộng đất thì không thể có chuyện cố tình trì hoãn.
Nguyễn Minh Cần cũng nêu áp lực của Staline nhưng không theo cách nhìn của Bùi Tín mà nhìn qua hệ thống tương quan trong khối Cộng Sản đặt đảng Cộng Sản tại các nước vào thế phải tuyệt đối vâng lệnh Đệ Tam Quốc Tế.
Ngoài ra, theo Nguyễn Minh Cần, chính Hồ Chí Minh cũng luôn tín phục các lãnh tụ Staline, Mao Trạch Đông. Nguyễn Minh Cần kể lại trường hợp đích thân nghe rõ lời của Hồ Chí Minh vào dịp dự hội nghị trung ương ở chiến khu Việt Bắc. Lúc đó Hồ Chí Minh đã nhắc đến Staline, Mao Trạch Đông và nhấn mạnh với các đại biểu trong hội nghị: "Các cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên Đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi (chúng tôi được biết hồi ấy ông vừa đi Moskva về), các đồng chí đã đồng ý. Các cô, các chú nên biết rằng: “ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.”  (26)
Dù muốn hay không, Hồ Chí Minh vẫn là người ký các sắc lệnh 149-SL, 151-SL vào tháng 4-1953 và sau đó ký sắc lệnh ban hành luật Cải Cách Ruộng Đất. Cũng thế, Hồ Chí Minh đã trực tiếp bổ nhiệm Trường Chinh và nhóm Hoàng Quốc Việt cầm đầu ban chỉ đạo Cải Cách Ruộng Đất.
Các qui định về luật lệ cũng như người thi hành đều do Hồ Chí Minh sắp đặt và đây là những thứ đã đưa đến cái chết tàn khốc của cả nửa triệu người dân vô tội, đã phá hủy toàn bộ khuôn thước tinh thần truyền thống dân tộc. 
Trước sự việc Hồ Chí Minh im lặng bỏ mặc cho bà Nguyễn Thị Năm bị đàn em theo lệnh cố vấn Trung Cộng lôi ra xử bắn, Thành Tín đã viết: “Tôi nghĩ việc này có rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, ông Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Đảng, ông vẫn phải chịu phần trách nhiệm.  Huống gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì còn ai có thể can thiệp? Ông đã để mặc cho nước của ông, đảng của ông bị một số kẻ nước ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ nhiệm vị trí, trách nhiệm của mình”. (27)
Ý kiến của Thành Tín có thể dành chung cho toàn bộ chính sách Cải Cách Ruộng Đất. Dù cán bộ, đảng viên biện giải cách nào thì Hồ Chí Minh cũng không thể chối bỏ trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, cần xét lại ý nghĩ cho rằng Hồ Chí Minh đã chịu sự chi phối bởi các áp lực bên ngoài hoặc một số người ngoại quốc kể cả do sự tín ngưỡng Staline, Mao Trạch Đông như Nguyễn Minh Cần đã nhắc.
Trên thực tế, Cải Cách Ruộng Đất là một bước đi bắt buộc trong cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã trở thành tín đồ thuần thành. Như thế, Hồ Chí Minh chỉ thi hành nhiệm vụ của một tín đồ nên không thể đặt vào cảnh ngộ bị ép buộc bởi bất kỳ cá nhân nào.
Tháo gỡ trách nhiệm không còn cần thiết và cũng là vấn đề bất khả, bởi tất cả đã được quyết định từ khi chọn đường. Hồ Chí Minh đã chọn con đường chủ nghĩa Cộng Sản với cuộc cách mạng giai cấp diễn tiến trường kỳ cho tới khi tận diệt giai cấp tư bản. Cải cách ruộng đất chỉ là một bước đi giai đoạn trên con đường dài thăm thẳm đó và là một bước đi không thể tránh. 
Cho nên, tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có biết các thảm cảnh đang diễn ra hay không để định mức trách nhiệm là việc làm ngây thơ không khác việc Vũ Đình Huỳnh già yếu bệnh hoạn vẫn cố chống gậy tới gặp Hồ Chí Minh để than: “Máu đồng bào đã đổ mà Bác ngồi yên được à”.
Có phải chăng lời than này đã là một lý do để không lâu sau đó tới lượt Vũ Đình Huỳnh sau bao năm kề cận Hồ Chí Minh bị tống vào nhà tù để trở thành một trường hợp Nguyễn Thị Năm thứ hai?
Nhìn lại những sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh và Cải Cách Ruộng Đất, vì thế, không phải để cố phân tích xem Hồ Chí Minh đã dính dấp ở mức độ nào.
Nghi vấn duy nhất nổi lên từ các sự kiện này là chúng có xẩy ra không, nếu không có Hồ Chí Minh?
 
CHÚ THÍCH
CHƯƠNG 46
_____________________________________
(01) Đảng CSVN qua những biến động trong phong trào Cộng Sản quốc tế –  Nguyễn Minh Cần.  Xin xem chương liên hệ ở phần I.
(02)  Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam – Trần Văn Giàu, Tập III, Nxb TPHCM 1993.
(03)-(10) Bác Hồ trên đất nước Lênin – Hồng Hà,  Thanh Niên 2000,  tr. 258.  Xin xem chương liên hệ.
(04)-(06) Việt Nam những sự kiện lịch sử – Dương Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001,  tr. 192
(05)  Lịch Sử Đảng CSVN (Bài giảng) – Nxb Đại Học Quốc Gia, HàNội 1999. tr. 32-36.
(07)-(08) Hồ Chí Minh tuyển tập  - Tập 2, Sự Thật, Hà Nội 1980,  tr.152 & 154.
(09)  Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch – Nxb Văn Học 2001,  tr. 88
(11)-(12)-(13)-(14) Mặt Thật – Thành Tín, Cali 1993,  tr. 57, 37-38 & 36
(15)  Từ Thực Dân đến Cộng Sản – Hoàng Văn Chí,  tr. 189
(16) Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 267 , Hà Nội 30-4-1993, tr. 1-2
(17) Việt Nam huyết lệ sử – Cao Thế Dung , Nxb Đồng Hương, Louisiana 1996,  tr. 747-748
(18) Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang Ngọc,  Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2001, tr. 327
(19)-(20) Hắc thư về chủ nghĩa Cộng Sản - Bản tiếng Việt của Hồ Văn Đồng, Hội Phát triển văn hóa Mỹ-Việt , Seattle 2002, T.II, tr. 1129-1130 – Phần phụ lục của người dịch.
(21)  Đêm giữa ban ngày– Vũ Thư Hiên, Nxb Văn Nghệ, Cali 1997,  tr. 32.
(22)  Những thiên đường mù– Dương Thu Hương, Hà Nội 1990,  tr. 17-29.
(23)-(25)-(27) Mặt Thật – Thành Tín, Cali 1993,  tr. 59-60, 67-68, 39
(24)  Tác giả chương 7 trong North Việt Nam Today – Xin xem chương 25
(26)  Xin xem chương Nguyễn Minh Cần.

No comments: